THUẬT NGỮ HY LẠP
Không thiếu
các từ ngữ Hy Lạp
xác định niềm
tin của chúng ta – như LOGOS và AGAPE. Nhưng có
các thuật ngữ Hy Lạp
khác diễn tả cách
thức hoặc dạng thức chứa
đựng sự mặc khải được giới
thiệu với chúng ta.
Theo thần
học gia Công giáo Erich Przywara, có 4 thuật ngữ như vậy: Kerygma,
Mysterium, Kairos, và Oikonomia. Ông phỏng theo thần học gia Paul Tillich (Tin
Lành Lutheran) và theo truyền
thống Thánh Thomas. Nói đơn giản: KERYGMA đề cập việc công bố Phúc Âm; MYSTERIUM liên quan những điều bí ẩn; KAIROS là thời gian của Chúa; và OIKONOMIA liên
quan sự sắp đặt
hoặc sự cai trị của Chúa đối với mọi sự.
Vấn
đề là Przywara tìm câu trả lời cho câu hỏi này: Cái gì là dạng ban đầu mà sự mặc khải của Chúa tỏ hiện cho chúng ta? Chẳng hạn, chúng ta có thể thấy cách thức, từ viễn cảnh Tin Lành,
mà KERYGMA có dạng cao nhất, hiểu
rằng truyền thống chỉ tập trung vào
Kinh Thánh (sola Scriptura, cuộc
cải cách Tin Lành thế
kỷ 16).
Dĩ nhiên câu trả lời là Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta qua 4 cách – lời nói, mầu nhiệm, thời gian, và sự sắp đặt mọi sự. Do
đó, chúng ta cần tìm hiểu sâu xa hơn về ý nghĩa của mỗi từ ngữ để hiểu
đúng về mối quan hệ
của chúng ta với
sự mặc khải của Chúa.
KERYGMA
Đây là việc công bố Lời Chúa, chúng ta có thể gọi là Phúc Âm hoặc Tin Mừng về Đức Kitô. Một ví dụ về cách sử dụng trong Tân Ước: “Thế gian đã
không dùng sự khôn
ngoan mà nhận biết
Thiên Chúa ở
những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn
ngoan của Người.
Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người
tin.” (1 Cr 1:21)
Chữ
KERYGMA có nghĩa đặc
biệt khác ngoài việc
công bố Tin Mừng. Theo
Przywara, ngày xưa chữ này kết hợp với loại âm
thanh phát ra bởi “chuyên
gia” của quốc gia, quân
đội, hoặc Giáo Hội qua “sứ giả” – người quy
tụ dân chúng, binh sĩ, hoặc
tín hữu để hội
họp, để tập luyện hoặc chiến đấu,
hoặc để cử hành lễ tế.
Przywara kết
luận rằng “điều đó liên quan khái niệm về vương quốc: dù quy
tụ lúc hòa bình hay chiến tranh, hoặc dâng lễ vật cho Thiên Chúa.” (Các câu
trích dẫn từ bài viết năm 1959 của Przywara về tôn
giáo và văn hóa, để
tưởng nhớ Paul Tillich, tái bản tại Analogia Entis – Metaphysics: Original
Structure and Universal Rhythm, Eerdmans xuất bản năm 2014.)
Là người
Công giáo, chúng ta có thể
thấy cách mà KERYGMA là dạng chủ yếu Thiên Chúa
dùng để mặc khải
cho chúng ta. Việc công bố chưa bao giờ là sự kiện tách rời. Việc công bố này luôn gây chú ý đối với việc công bố khác, sứ giả hoặc người đưa
tin.
Hơn nữa,
như Przywara cho biết, ngày xưa điều đó luôn xảy ra trong cuộc hội họp của
đất nước, đôi khi vì mục đích tế lễ. Theo nghĩa này,
Thánh Lễ là
cách trải nghiệm của
KERYGMA: cử hành lễ
dâng Thánh Thể thì có
việc công bố Lời Chúa. Thật thú vị trong cách xưa như việc quy tụ, đôi
khi cả lúc
chiến đấu và lúc
an bình. Cả hai không
có khi dâng lễ chăng? Chúng
ta vừa bình
an và nghỉ ngơi trong Chúa,
trong khi vẫn chiến đấu
với tội lỗi, với Satan và tử thần.
MYSTERIUM
Nếu
KERYGMA là công bố Lời Chúa
thì MYSTERIUM có vẻ đối
lập: Lời Chúa trong sự
thinh lặng. MYSTERIUM, cũng hiểu là
đọc thầm, có gốc là động từ MUO của Hy ngữ, nghĩa
là “không nói, làm thinh.” Điều này chắc chắn là phản đề của KERYGMA mà sứ giả làm. Là người Công giáo, chúng ta biết rằng chúng ta cần cả hai: Lời nói của Chúa và sự im lặng của Chúa.
Nói cách khác, chúng ta đón nhận
cả Kinh Thánh được nghe đọc và sự im lặng bí ẩn của Đức Kitô
“nói” với chúng
ta qua bí tích Thánh Thể. Przywara
coi thuật ngữ này liên quan sâu xa tới Thánh Lễ như sự kiện là
thành viên trong Nhiệm Thể
Đức Kitô được làm mới.
KAIROS
KAIROS liên quan thời gian của Chúa. Điều đó được hiểu đúng nhất theo khái niệm về thời gian của người
Hy Lạp, được diễn tả bằng 3 từ ngữ:
Aion, Chronos, và Kairos. AION là vĩnh cửu, CHRONOS là thời gian, và KAIROS là những lúc thích hợp trong sự nối tiếp của thời
gian. Một nhà phê bình nói rằng sự khác biệt giữa CHRONOS và
KAIROS là số lượng thời
gian và chất lượng thời
gian. Nói cách khác, CHRONOS hỏi
câu “Mấy giờ rồi?”
và KAIROS hỏi câu
“Thời gian để làm
gì?”
Theo thuật
ngữ Kitô giáo, có thể chúng ta nói rằng KAIROS là lúc AION giao nhau với CHRONOS. KAIROS là thời gian thích hợp của Thiên Chúa, Ngài sắp xếp thời gian để
MYSTERIUM sẽ trở thành KERYGMA (hoặc ngược lại). Một ví dụ rõ ràng về cách sử dụng từ ngữ này
trong Tân Ước là lời của ông Gioan Tẩy Giả: “Thời kỳ [kairos]
đã mãn, và Triều Đại Thiên
Chúa đã đến
gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
(Mc 1:15) Một ví dụ
khác là khi Chúa Giêsu nói tới
Cuộc Khổ Nạn của Ngài: “Thời của tôi [kairos] chưa
đến, nhưng thời
của các anh lúc nào cũng thuận tiện.” (Ga 7:6)
Khi nào chúng ta hỏi Chúa, khi nào hoặc lúc nào sẽ xảy ra? Đó là
chúng ta hỏi về CHRONOS.
Thiên Chúa trả lời chúng
ta bằng KAIROS của
Ngài – thời gian do Ngài ấn định, không
phải do chúng ta.
OIKONOMIA
Từ
ngữ Hy Lạp này là nguồn
gốc sinh ra chữ “kinh tế” của chúng
ta. Trong Tân Ước, nó có
thể được dịch là sự quản gia, sự cai quản, hoặc
sự phân phát. Theo ngữ
cảnh trên đây, chúng ta có thể nói rằng chữ OIKONOMIA nói tới mệnh lệnh của Thiên
Chúa về việc công bố của Ngài, sự bí ẩn
của Ngài, và thời
gian của Ngài.
Nhưng đối với Przywara, còn hơn
như thế. Ông
dùng câu này như khởi
điểm: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây
không phải bởi sức
anh em, mà là một ân huệ của Thiên
Chúa; cũng không phải
bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng
ta là tác phẩm của
Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên
trong Đức Kitô
Giêsu, để sống mà thực hiện công
trình tốt đẹp Thiên
Chúa đã chuẩn bị
cho chúng ta.” (Ep 2:8-10)
Theo Przywara, các câu này đưa chúng ta
tới những gì thực sự chủ yếu: chiều sâu
“khôn dò” của Thiên
Chúa. Thánh Phaolô ca ngợi
sự cao cả của Thiên Chúa: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên
Chúa sâu thẳm dường
nào! Quyết định
của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người,
ai theo dõi được!” (Rm
11:33)
Có 2 phương diện đối với OIKONOMIA. Mặt khác,
có sự liên
quan của Thiên
Chúa trong việc sắp đặt
các thụ tạo và phục hồi mọi sự trong Đức
Kitô. Mặt khác,
công việc này
quá đỗi tuyệt vời
và ngoài tầm hiểu
của chúng ta, tư tưởng bí ẩn của Thiên Chúa khác hẳn tư tưởng của chúng
ta. Nói cách khác: OIKONOMIA cho thấy
nghịch lý đặc
biệt của Kitô giáo – Thiên Chúa vừa hữu hình vừa vô hình đối với chúng ta. Ngài hóa thành nhục thể và vẫn thuần túy thần khí.
KẾT
LUẬN
Có 4 từ
ngữ chính: KERYGMA, MYSTERIUM, KAIROS, và OIKONOMIA. Mỗi từ ngữ cho thấy cách
đặc biệt mà
chúng ta gặp sự mặc
khải của Thiên Chúa. KERYGMA là Lời Chúa được công bố cho chúng ta trong Kinh Thánh,
đọc riêng
và đọc công
khai trongtle. MYSTERIUM là cách “bí ẩn”
mà Thiên Chúa đến
với chúng ta, qua Nhiệm Thể Ngài là Giáo Hội và Thánh Thể. KAIROS đánh dấu thời gian mà Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử và
trong cuộc đời chúng
ta. Điều đó tác
động ít với “cái gì” – Kerygma hoặc Mysterium – và tác động
nhiều với “khi nào.”
Cuối
cùng, OIKONOMIA nói tới
kế hoạch của Chúa bao gồm KERYGMA, MYSTERIUM, và
KAIROS. Đó là kế hoạch
phản ánh sự khôn
ngoan vượt ngoài tầm hiểu của chúng
ta, đưa chúng ta vào chiều
kích sâu thẳm của
Thiên Chúa, dẫn chúng
ta đi từ những thứ
hữu hình vào trong bóng tối
choáng ngợp của những
thứ vô hình.
STEPHEN BEALE
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ
CatholicExchange.com)
Đêm 06-02-2020
|