CỦA THÁNH
Luật
Môsê truyền dạy: “Mọi
con trai đầu lòng phải được gọi là CỦA THÁNH, dành cho Chúa.” (Lc
2:23) Vì thế, khi đã
đến ngày lễ thanh tẩy theo luật, Đức
Maria và Đức Giuse đem Con
Trẻ Giêsu lên Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa.
Cũng theo Luật truyền, lễ dâng
là một đôi
chim gáy hay một cặp bồ
câu non. Lễ Đức
Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền
Thánh còn gọi là Lễ Nến, Lễ Thanh Tẩy hoặc
Tẩy Trần, và còn gọi
là Lễ Gặp Chúa –
từ Hy ngữ là Ὑπαπαντή
(Hypapante). Giáo Hội
kính mừng lễ này
sau khi Chúa Giêsu giáng sinh được 40 ngày, kính nhớ việc Đức Maria được
thanh tẩy theo luật Môsê: phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là ô uế trong 40 ngày nếu sinh con trai, hoặc 60 ngày nếu sinh con gái. (Lv 12:5)
Đặc
biệt là cũng ngày hôm đó, có một người tên là Simêôn là người công chính và sùng đạo, ở Giêrusalem, vẫn mong chờ niềm an ủi của
Israel, ông đã được
Thánh Thần linh báo
cho biết là ông
sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy
Đấng Kitô của
Đức Chúa. Và ông đã được thỏa lòng mong ước.
Theo nguyên tắc thời Cựu Ước, đó là
việc dâng “của lễ đầu mùa”
theo luật truyền: “Chúng
tôi BUỘC mình hằng năm phải đem dâng
vào Nhà Đức Chúa những thổ sản đầu mùa của chúng tôi và TẤT CẢ HOA TRÁI
ĐẦU MÙA mọi thứ cây, cũng như
CÁC CON TRAI ĐẦU
LÒNG của chúng
tôi và của thú vật, như đã
chép trong Lề Luật.
Các con đầu
lòng của bò, ngựa, chiên, dê đem tới Nhà Thiên Chúa cũng dành
cho các tư tế
đang phục vụ Nhà Thiên Chúa chúng tôi. PHẦN TỐT NHẤT trong số bột
xay, trong những của trích dâng, hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, rượu mới và dầu tươi, chúng
tôi sẽ đem dâng
các tư tế tại các
phòng trong Nhà Thiên Chúa chúng tôi.” (Nkm 10:36-37) Tất cả đều là của Chúa, thế nên những gì là sản phẩm đầu tiên –
người và vật – đều phải kính
dâng Ngài trước để
bày tỏ lòng
kính trọng và biết ơn.
Sự
kiện quan trọng dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã
được Thánh sử Luca ghi lại trong trình
thuật Lc 2:22-40. Sự kiện này là
động thái
tuân phục, nhằm thực
hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu Ước – cụ thể là
trong Lv 12:6-8.
Theo sử
sách, lễ này
được du nhập vào
Đế quốc Đông
phương dưới
triều vua Justinianô (527-565). Đối với Giáo Hội tại Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách
bí tích của ĐGH Gelasianô (thế kỷ VII). Từ cuối thế kỷ
IV, Giáo Hội tại Giêrusalem
đã mừng kính lễ này. Giáo Hội tại Hy Lạp và
Milanô kính mừng lễ này là
một trong các lễ trọng kính Chúa Giêsu, dạng nghi lễ chính thức trong năm. Giáo Hội tại Rôma kính mừng lễ này là một trong số các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria.
Trong tông huấn “Marialis Cultus” (năm 1974, nói về việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria), Thánh
GH Phaolô VI cho biết: “Lễ
ngày 2 tháng 2 được
cải tên là Lễ Dâng Chúa Vào Đền Thánh, cũng cần nhắc nhở để hưởng
nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi
song song. Đức
Kitô thực hiện
mầu nhiệm cứu độ. Đức Mẹ Maria mật
thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng
vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu Ước, vừa là
hình ảnh của Dân
Chúa của Tân Ước luôn bị bắt bớ gian khổ, thử thách
đức tin và
lòng trông cậy.” (số 7b) Thời nào cũng có bách hại với các dạng và mức độ khác nhau, đó là
tôi luyện đức tin
chân chính, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần đề cập. Và người ta cũng nói: “Ngọc bất trác bất thành khí.”
Theo thói quen tốt lành, nến được làm
phép trong Thánh Lễ hôm
nay để tưởng nhớ
lời tiên tri Simêon đã xác định Đức Kitô là
“ánh sáng soi đường
cho dân ngoại.” (Lc 2:32) Tại
các giáo xứ thường
có rước kiệu
nến trong nhà thờ
để nhớ đến việc Đức Giêsu
tiến vào Đền Thờ Giêrusalem, đồng thời cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ dâng con cái cho Thiên
Chúa, vì con cái là tặng phẩm
vô giá, và cũng nhắc
nhở mọi người phải bảo vệ sự sống
bằng mọi giá.
Từ
ngàn xưa, chính Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn
đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước
mà các ngươi đợi trông đang đến.” (Ml
3:1) Vị Chúa Thượng
đó chính là Thiên Chúa, Đấng
“như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy
của thợ giặt” và “sẽ ngồi để luyện kim tẩy
bạc, sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.” (Ml 3:2-3a) Chắc chắn chẳng
ai có thể chịu nổi
nếu không nghiêm túc sống công minh chính trực và tuân thủ Luật Chúa: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên
khôn.” (Tv 19:8) Và chỉ
những ai đón nhận
lời nghiêm huấn
mới khả dĩ nên khôn. (Cn 15:5 và Cn 19:20)
Những
người đã được thanh tẩy, được tinh luyện
thì thật hạnh phúc vô
cùng. Thật vậy, ngôn sứ Malakhi chứng minh: “Bấy giờ,
đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công
chính. Lễ vật của
Giuđa và của
Giêrusalem sẽ
làm đẹp
lòng Đức
Chúa như những
ngày xa xưa, như những năm thuở trước.” (Ml 3:3b-4) Cái cũ được bỏ qua, và cái mới lại bắt đầu. Tuyệt
biết bao!
Quả
thật, niềm hạnh phúc cứ dâng trào, khôn tả. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi cửa
đền, hãy cất
cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua
vinh hiển ngự vào.” (Tv
24:7 & 9) Đức Vua đó
không ai khác chính là “Đức
Chúa mạnh mẽ oai hùng,
Đức Chúa
oai hùng khi xuất trận.” (Tv
24:8 và 10) Niềm vui không
thể giấu được, chắc
chắn phải lên tiếng,
cùng nhau hô vang tán dương Chúa suốt cả cuộc đời chúng
ta: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.” (Lc 19:38) Chúng ta chân thành ca tụng Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài, không chỉ Ngài xứng đáng được tôn vinh mà chính chúng ta lại được ban ơn cứu
độ. Thật là quá đỗi kỳ diệu!
Cái gì ra cái nấy, không thể lẫn lộn. Rất rạch ròi.
Tông đồ Phaolô giải thích: “Vì con cái thì
đều chung một huyết
nhục, nên Đức Giêsu đã cùng MANG LẤY HUYẾT NHỤC đó. Như
vậy, nhờ cái chết của Người, Người
đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma
quỷ, và
đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình
trạng nô lệ.” (Dt
2:14-15) Tại sao? Lý do thế
này: “Vì những
kẻ được Người giúp
đỡ không
phải là các
thiên thần, mà là
con cháu Áp-ra-ham. Bởi
thế, Người đã phải NÊN GIỐNG anh em mình về mọi phương diện, để
trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và TRUNG TÍN trong việc thờ phượng Thiên
Chúa, hầu đền tội
cho dân.” (Dt 2:16-17)
Có một
lý do đặc biệt
hơn: “Vì bản
thân Người
đã TRẢI
QUA THỬ THÁCH và ĐAU KHỔ, nên Người có thể CỨU GIÚP những ai bị thử thách.” (Dt
2:18) Đó là một thực
tế minh nhiên. Vì về
phương diện nhân loại, người ta chỉ có thể CHO những gì mình CÓ, không có
thì không thể cho; hoặc người
ta càng dày dạn kinh nghiệm
thì người ta càng
khôn ngoan, càng có thể tư vấn
cho người khác. Thật
vậy, chí sĩ Phan Bội Châu đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng
phẳng cả – Anh hùng hào kiệt có hơn ai?”
Ngay hôm song thân đưa Hài Nhi Giêsu
đến Đền Thờ
để dâng cho Thiên Chúa theo Luật truyền, ông Simêôn được Thần Khí thúc đẩy nên ông cũng lên Đền Thờ lúc đó. Ông vui mừng ẵm Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca “Nunc Dimittis” (An
Bình Ra Đi – Lc 2:29-32): “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được thấy ơn cứu
độ. Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng
soi đường cho dân
ngoại, Là
vinh quang của Israel Dân Ngài.” Ông
thực sự mãn nguyện vì đã tận mắt nhìn thấy Đấng Cứu Thế mà ông
hằng mong đợi. Và ông
không còn muốn gì hơn
nữa.
Thật
bất ngờ, cả Đức Maria và
Đức Giuse đều
ngạc nhiên vì những
lời ông Simêôn vừa nói về Con Trẻ. Sự việc xảy ra lạ
lùng quá chừng! Sau
đó, ông Simêôn chúc phúc cho hai Ông Bà, và nói với Thân Mẫu của Hài Nhi: “Thiên Chúa
đã đặt cháu bé
này làm duyên cớ cho nhiều
người Israel ngã xuống hay đứng lên.
Cháu còn là dấu hiệu
cho người đời chống báng;
như vậy, những ý nghĩ
từ thâm
tâm nhiều người sẽ
lộ ra. Còn chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm
thâu tâm hồn Bà.” (Lc
2:34-35) Ôi chao, một lời
tiên tri rất đáng
“quan ngại”. Thế nhưng
Đức Maria tỏ ra bình tĩnh, không bàng
hoàng, chỉ thầm lặng
ghi nhớ và suy niệm
hằng ngày. Sự
im lặng đôi khi còn nói nhiều hơn chính những lời nói.
Tuy nhiên, cuộc sống luôn phức tạp hơn chúng
ta tưởng, và người ta thường cho rằng tin vào số mệnh là mê tín dị đoan. Thế nhưng lại không
phải như vậy. Thật vậy
ư? Tại sao thế? Bởi vì, xét theo tâm linh, mỗi người trong chúng ta
đã được Thiên
Chúa QUAN PHÒNG và TIỀN ĐỊNH
từ đời đời, nghĩa là ai
cũng có một “số mệnh”
riêng – thế nhân gọi là định mệnh, nhưng về tâm
linh thì không như thế,
và mang ý nghĩa tích cực
hơn.
Từ
xưa, chính ngôn sứ
Isaia đã xác định: “Đức Chúa là
Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà
Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân
Israel chung quanh Người.
Thế nên tôi được Đức Chúa
trân trọng, và
Thiên Chúa tôi thờ
là sức mạnh
của tôi.” (Is 49:5) Thánh Phaolô cũng
nói: “Chúng ta là tác phẩm
của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên
trong Đức Kitô
Giêsu, để sống mà thực hiện công
trình tốt đẹp Thiên
Chúa đã chuẩn bị
cho chúng ta.” (Ep 2:10) Đó là định mệnh của các
tín nhân, bởi vì
“Đức Chúa
đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.” (Is 49:1)
Thánh sử
Luca cho biết một sự lạ khác:
Ngày hôm đó cũng có một
nữ ngôn sứ tên là
Anna, con ông Pơnuên, thuộc
chi tộc Ase, đã tám mươi tư tuổi. Từ khi xuất giá, bà
đã sống với chồng
được bảy năm, rồi ở goá. Bà
không rời bỏ Đền
Thờ, luôn ăn chay, cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên
Chúa. Cũng vào lúc ấy,
bà tiến lại gần
bên, cảm tạ Thiên
Chúa, và nói về Hài
Nhi cho hết những ai
đang mong chờ ngày Ngài cứu chuộc Giêrusalem.
Có vẻ
bình thường đối
với mọi diễn tiến, thế nhưng đó lại chính là Thánh Ý của Thiên Chúa, vì Ngài thấu suốt mọi sự, chắc chắn
không có gì ngoài tầm
kiểm soát của
Ngài: “Lạy
Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay
nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài
quen thuộc cả. Miệng
lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài
bao bọc con cả sau lẫn
trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.” (Tv
139:1-5) Ngay cả một sợi
tóc mong manh mà Ngài cũng quan phòng và tiền định rồi, huống chi con
người, loài thụ
tạo quý giá của
Ngài.
Hoàn tất
“thủ tục” theo Luật truyền, Đức Maria và
Đức Giuse trở về
nơi cư ngụ ở Nadarét, miền Galilê. Còn các tín nhân chúng ta,
những người cũng đã
được thanh tẩy qua
Bí tích Rửa Tội, được
thánh hóa qua Bí tích Thêm Sức,
rồi lại thường xuyên được thanh tẩy qua Bí
tích Hòa Giải. Cuộc đời
Kitô hữu là một chuỗi dài của Ơn Thánh. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực noi gương Đức
Kitô để sao cho “ngày
càng LỚN LÊN,
thêm VỮNG MẠNH, đầy
KHÔN NGOAN, và hằng được
ÂN NGHĨA cùng Thiên Chúa.” (Lc 2:40) Cuộc sống tín nhân là chuỗi tháng ngày “giặt đời” không ngừng – hoàn thiện như Cha trên trời. (Mt 5:48) Thánh nhân có quá khứ, tội nhân có tương lai. Cứ dần dần, từng chút, từng bước,... từ từ đến
gần Chúa hơn.
Nhờ Ánh
Sáng Chúa Giêsu soi đường
thì sẽ không lạc lối, bởi vì
chính Ngài là ÁNH SÁNG THẾ
GIAN. (Ga 8:12; 1 Ga 1:5) Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa là Nguồn Ánh Sáng và Ơn Cứu Độ của tôi.” (Tv
27:1) Chúa Giêsu đã minh định:
“Tôi là CON ĐƯỜNG, là SỰ THẬT và là SỰ SỐNG.” (Ga 14:6) Và Ngài cũng đã xác
nhận: “Tôi là
ánh sáng thế gian. Ai
theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được
ánh sáng đem lại
sự sống.” (Ga
8:12)
Lạy
Thiên Chúa là Nguồn
Sáng, xin hướng
dẫn chúng con luôn đi đúng đường lối của Ngài,
xin tẩy rửa và
thanh luyện chúng
con để xứng đáng với Ngài, và xin biến chúng con thành ánh nến đức tin chiếu soi nơi
tăm tối. Trong những ngày đầu năm 2020, nhân loại đã ngạo mạn nên tự tạo đại dịch Coronavirus
mang tên loài quỷ đỏ Vũ Hán,
xin Ngài tha thứ và cứu thoát những người thành
tín. Chúng con chân thành sám hối
và cầu xin nhân
danh Thánh Tử Giêsu,
Đấng Cứu Độ
duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|