HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN A
Is 8,23b-9,3; 1 Cr
1,10-13.17; Mt 4,12-23
ĐỨC
GIÊ-SU - ÁNH
SÁNG CHIẾU SOI TRẦN GIAN
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG:
Mt 4,12-23
(12) Khi Đức
Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người
lánh qua miền Ga-li-lê. (13) Rồi Người bỏ
Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành
ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun
và Náp-ta-li. (14) Để ứng nghiệm lời
Ngôn sứ I-sai-a nói: (15) “Này đất Dơ-vu-lun,
và đất Náp-ta-li, hỡi con đường
ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan. Hỡi
Ga-li-lê miền đất của dân ngoại ! (15) Đoàn
dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy
một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ
đang ngồi trong vùng bóng tối của tử
thần, nay được ánh sáng bừng
lên chiếu rọi !” (17) Từ lúc đó, Đức
Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng:
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời
đã đến gần”. (18) Người đang
đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai
anh em kia, là ông Si-mon cũng gọi là Phê-rô, và
người anh là ông An-rê, đang quăng chài
xuống biển, vì các ông làm nghề đánh
cá. (19) Người bảo các ông: “Các anh hãy
theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những
kẻ lưới người như lưới
cá”. (20) Lập tức hai ông bỏ chài lưới
mà đi theo Người. (21) Đi một quãng
nữa, Người thấy hai anh em khác con ông
Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là
ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là
ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền.
Người gọi các ông. 22) Lập tức, các
ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
(23) Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền
Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường
của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời,
và chữa hết các bệnh hoạn tật
nguyền của dân.
2. Ý
CHÍNH:
Nghe tin Gio-an Tẩy
Giả bị nộp, Đức Giê-su từ
Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để tránh bị theo dõi,
và hoạt động trong môi trường có nhiều
dân ngoại như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Ngươi chọn
thành Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo và
từ đây Người
đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời. Nội dung các bài giảng được
tóm lại như sau: “Anh em hãy sám hối vì
Nước Trời đã gần đến”.
Đức Giê-su cũng chọn 4 môn đệ đầu
tiên gồm 2 đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và
An-rê đang thả lưới trên biển hồ. Hai là
Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền
cùng với cha và các người làm
công. Nghe Đức Giê-su kêu gọi, các ông lập tức
từ bỏ tất cả mà theo làm môn đệ
của Người.
3. CHÚ
THÍCH:
- C
12-13: + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp: Thánh Mát-thêu
dùng từ “bị nộp” thay vì “bị bắt”
khi nói về Gio-an, giống như khi nói về
Đức Giê-su (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy
số phận của Gio-an giống như Đức
Giê-su. Dùng từ “bị nộp” ở thể
thụ động là có ý nói biến cố
xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức
Giê-su bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt
sứ mệnh tiền hô dọn đường. +
Người lánh qua miền Ga-li-lê: Khác với
Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su lui về Ga-li-lê là
vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống,
để khởi sự rao giảng Tin Mừng.
Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các
môn đệ lần cuối cùng để sai đi
khắp thế gian, tiếp tục sứ mệnh
mà Người khởi sự hôm nay. +
Người bỏ Na-da-rét đến ở
Ca-phác-na-um: Đức Giê-su đã không chọn
quê hương Na-da-rét, nhưng chọn Ca-phác-na-um
để bắt đầu sứ mệnh rao giảng.
+ Một thành ven biển hồ Ga-li-lê: Thành
Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định
cư của hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x.
Gs 19,10.32-39).
- C
14-16: + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ
I-sai-a nói: I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi
tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những
được thoát ách thống trị của
quân Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà
còn được giải phóng khỏi cảnh
“tối tăm sầu khổ” do bị dân ngoại chiếm
cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của
dân ngoại: Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì
là vùng đất có nhiều dân ngoại sống
chung với dân Do thái, và chưa có vị
Ngôn sứ nào xuất thân ở đó (x. Ga
1,46). Điều này nằm trong chương trình
hành động của Đấng Thiên Sai đã
được Ngôn sứ I-sai-a báo trước.
+ Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối
tăm: Mát-thêu ứng dụng việc Đức
Giê-su đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước
Trời. “Ánh sáng huy hoàng” là chính Đức Giê-su biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và
tiếp tục chiếu rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp
các môn đệ để sai họ
đi truyền giáo (x Mt
28,16-20).
- C
17-18: + Từ lúc đó, Đức Giê-su
bắt đầu rao giảng và nói: Đối với
Mát-thêu thì đây là thời điểm
Đức Giê-su bắt đầu thi hành sứ
mệnh cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng
được Mát-thêu tóm gọn trong câu: “Anh em
hãy sám hối vì Nước Trời
đã đến gần”. Đây cũng là nội
dung mà Đức Giê-su truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). +
“Anh em hãy sám hối”: Câu này giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy
Giả trước đó (x. Mt
3,2). + Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời, hay cũng
gọi là Nước Thiên Chúa. Vì Mát-thêu
viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh
gọi tên Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính
trọng Thánh Danh của Người trong điều
răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa
Trời vô cớ”. Nước Thiên Chúa là
một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước
này đã tới gần trong con người
và sứ vụ của Đức Giê-su. +
Biển hồ Ga-li-lê: Là một biển hồ hồ hình quả trám dài 21
cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ
Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là
Phê-rô: Si-mon là tên của Phê-rô trước khi
theo Đức Giê-su. Đức Giê-su đã
đổi tên Si-mon thành Phê-rô nghĩa là “Tảng
Đá” (x. Mt 16,18).
- C
19-20: + Kẻ lưới người như lưới
cá: Đức Giê-su sẽ trao sứ mệnh đánh
lưới các linh hồn người ta, giống
như đi chài lưới bắt cá. +
Lập tức bỏ chài lưới:
Đây là thái độ dứt khoát và mau mắn
đáp lại lời mời gọi của
Đức Giê-su: bỏ nghề cũ để theo
nghề mới.
- C
21-23: + Gia-cô-bê: Đây là Gia-cô-bê Tiền nghĩa là
theo Chúa trước, phân biệt với Gia-cô-bê
Hậu theo Chúa sau. Gia-cô-bê với em là Gio-an cùng
Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba người thân tín
của Đức Giê-su. Nhóm này được
đi theo Đức Giê-su và được chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc
khổ nạn, ba người này cũng được
theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni
chứng kiến Người cầu nguyện trước
khi bị bắt (x. Mt 26,37-46). + Lập tức
các ông bỏ thuyền bỏ cha…: Cũng như
Si-mon và An-rê lập tức bỏ nghề, Gia-cô-bê
và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài
sản là thuyền, và từ giã người
thân là cha già mà theo làm môn đệ Đức
Giê-su. + Đức Giê-su đi khắp miền
Ga-li-lê: Việc truyền giáo cần phải
năng động. Đức Giê-su
và các môn đệ đi đây đi
đó khắp miền Ga-li-lê rao
giảng Tin Mừng Nước Trời. +
Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền
của dân: Viêc chữa bệnh là dấu chỉ
thời đại Thiên Sai đã bắt đầu
(x. Mt 10,8; 11,4-5).
4. CÂU
HỎI:
1) Tại sao Mát-thêu
dùng kiểu nói “Sau khi Gio-an bị nộp” thay vì
“bị bắt”? 2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép
rửa sám hối tại miền nào, và
Đức Giê-su khởi sự rao giảng Tin Mừng
Nước Trời tại miền nào? 3) Đức
Giê-su đã làm gì để chiếu soi ánh
sáng huy hoàng của Người vào miền
Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết? 4) Lời
giảng của Đức Giê-su được tóm
lại trong câu nào? 5) Tại sao Mát-thêu dùng từ
“Nước Trời đã đến gần”
thay vì “Nước Thiên Chúa đã đến
gần” như Lu-ca? 6) Bạn biết gì về biển
hồ Ga-li-lê? 7) Phê-rô là ai? Tên Phê-rô nghĩa là gì và
ông được Đức Giê-su đổi tên khi
nào? 8) Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê ? Tại
sao lại gọi là Gia-cô-bê Tiền hay Gia-cô-bê Hậu?
9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày
nay chúng ta nên làm gì khi được Chúa
mời gọi đi theo Chúa? 10) Đức Giê-su
nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng
như thế nào? Người thi hành sứ
mệnh bằng những việc gì?
II. SỐNG
LỜI CHÚA:
1. LỜI
CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi
trước mặt thiên hạ, để họ thấy
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh
em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ÁNH SÁNG HY VỌNG ĐÃ XUẤT HIỆN
GIỮA ĐÊM TỐI:
Chiều hôm ấy, hai cậu bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất
thần đổ xuống. Mưa dai dẳng suốt hai tiếng
đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ
xa. Hai cậu bé khấp khởi mừng thầm.
Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc
đèn đi tìm hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai
cậu bé trở về tới nhà an toàn.
2) MAU MẮN ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA KÊU GỌI:
Ơn gọi của Mẹ
Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư.
Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn
Độ để vào tập viện. Mẹ
đã cống hiến gần
20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường
của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc
những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò
giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân
đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt
gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã
kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh
đó. Mẹ liền vực người
thiếu phụ tới nhà thương.
Mẹ
nhất định cứ đứng ở trước cổng
cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này, Mẹ cảm nhận được lời
mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hãy dấn thân cho
những
kẻ bị bỏ rơi. Và
thế
là Mẹ đã xin ra khỏi dòng,
đến
sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không
ngờ
mình sẽ là người sáng
lập
nên một hội dòng mới chuyên
lo việc
bác ái, giúp đỡ những người
nghèo khổ trên khắp thế giới.
3) THÓI
THAM LAM ÍCH KỶ LÀ NGUỒN GỐC PHÁT SINH MỌI TỘI ÁC:
Chuyện kể một
nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc
khấn vái với các thánh. Gặp thời kỳ phải cạnh
tranh gay gắt trong công việc làm ăn, anh ta lại càng đi cầu khấn gấp bội.
Động lòng trắc ẩn, một hôm một sứ thần đã hiện ra với anh và nói: "Thấy con thành
tâm cầu
xin nên Chúa không nỡ chối từ
và sai ta đến với con. Vậy
bây giờ con hãy cho ta biết con ước muốn điều
gì, để ta sẽ thay quyền
Chúa ban cho... Đồng thời
để chứng tỏ cho loài
người
biết lòng quảng đại của
Thiên Chúa, thì hễ con nhận được
một điều gì, thì Chúa
nhân từ
cũng sẽ ban cho các đồng nghiệp
hay hàng xóm của con được
gấp đôi như thế".
Nghe sứ thần phán, lòng anh thương gia từ chỗ vui mừng
hân hoan biến thành sầu buồn tức giận. Anh tự nhủ:
"Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn... sẽ được
hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu
mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm... sẽ được
tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin được vợ đẹp
con khôn thì đồng nghiệp
của mình lại sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con
khôn gấp
đôi con mình. Đó là chưa
nói tới
chuyện chúng nó có tới hai vợ,
còn mình chỉ có một... Trong thời buổi cạnh tranh
thế này thì mình phải làm sao hơn bọn chúng chứ! ".
Anh nhà buôn nhíu mày
suy nghĩ đắn đo. Một lát
sau, chợt
anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì
thú vị.
Anh đến quì xuống và thưa với sứ thần: "Lạy Sứ
thần, xin cầu cùng Chúa cho
con bị
đui một con mắt".
Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Anh ta không
xin cho mình được may mắn vì sợ người khác
được may lành gấp đôi. Cuối cùng anh
đã xin cho mình bị rủi ro để kẻ khác bị hại gấp đôi mình, là
xin cho anh bị đui một con mắt để những kẻ
kia bị mù cả hai mắt luôn. Đây thật là một con người tiểu nhân và quá nhẫn tâm
!!!
4) VIỆC
BÁC ÁI LÚC CÒN SỐNG ĐÁNG QUÝ HƠN SAU KHI CHẾT
Một người
kia rất giàu tiền bạc của cải. Ông có
lòng tốt dự định sẽ di chúc lại toàn bộ tài sản
của mình sau khi chết để các tổ chức
từ thiện lo phục vụ cho người nghèo. Nhưng đi đến đâu ông cũng chỉ nhận
được những cái nhìn khinh thường
của mọi người. Ông ta liền tìm đến
một ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và hỏi:
“Thưa thầy, tại sao dù tôi đã làm chúc
thư để lại toàn bộ gia sản lớn
lao của tôi cho các công việc từ thiện bác
ái, thế mà nhiều người vẫn nghĩ
tôi là loại người keo kiệt và khinh thường
tôi. Vậy tôi phải làm gì để họ biết
về lòng quảng đại của tôi và kính
trọng tôi hơn ?”
Thay vì trả
lời trực tiếp câu hỏi của người
giàu có kia, vị ẩn sĩ đã kể cho
ông ta nghe một câu chuyện như sau: “Có một chú
heo nọ
một hôm gặp chị
bò sữa liền mở miệng than thở
như thế này: Này chị bò, tôi và chị
đều cống hiến thịt mình làm thức
ăn cho loài người. Thế mà thật
đáng buồn ! Tôi thấy họ tỏ ra thân thiện
và âu yếm vuốt ve chị. Còn tôi thì lại
bị khinh dể xa lánh ?” Ngẫm
nghĩ một lát rồi chị bò cái mới
ôn tồn trả lời chú heo rằng: “Quả
thật cả hai chúng ta đều cung cấp cho loài
người thịt để ăn sau khi chúng ta
chết. Nhưng sở dĩ họ quí mến tôi
hơn chú, theo tôi nghĩ có lẽ là vì
ngay từ bây giờ lúc còn sống, mỗi
ngày tôi đều cống hiến cho họ sữa
tươi để uống chăng ?”
Câu trả lời
của chị bò sữa dạy chúng ta: “Của cho không bằng cách cho” và “Một
miếng khi đói bằng một
gói khi no”. Cho người khác những cái họ đang cần thì tốt hơn để lại chúc thư cho họ của cải sau khi mình chết, khi
mình không thể sử dụng được nữa.
Điều người khác cần
nơi chúng ta không những là tiền bạc của chúng ta, mà còn là tình thương,
sự quan tâm của chúng ta. Muốn được
người khác quý mến kính trọng thì
chúng ta phải quan tâm đến kẻ khác trước, cởi mở tâm hồn với họ, mở rộng trái tim để yêu thương và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ.
5) QUẢNG ĐẠI
DẤN THÂN PHỤC VỤ NGƯỜI
NGHÈO:
Năm 1950, một hội nghị
đại diện 17 quốc gia đã bầu ALBERT SCHWEITZER làm “người hùng
của
thế kỷ”. Hai năm sau (1952). Albert Schweitzer được
giải thưởng Nobel hoà
bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: Ông vừa là một triết
gia lừng danh, một nhà thần học nổi
tiếng, một sử gia đáng
kính, một
nhạc công sôlô trong dàn nhạc và còn là một bác
sĩ thừa sai nữa.
Nhưng điểm nổi bật
nhất nơi ông là niềm tin Ki-tô giáo sâu sắc. Chính
niềm
tin này đã khiến ông thành “người hùng của thế kỷ”: Năm 21 tuổi,
Schweitzer tự hứa với mình
là sẽ
nghiên cứu nghệ thuật
và khoa học cho đến
năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc
đời còn lại cho những
người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó. Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30 của ông, nhằm ngày
13/10/1905, ông đến một hộp thư ở Paris gởi
một số thư về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào
đại
học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ
thừa
sai để phục vụ đám dân nghèo.
Những lá thư của ông
lập
tức bị phản đối ngay. Bà con và bè bạn ông
đồng
loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của ông. Họ bảo ông
là một
người đem chôn dấu tài năng đã được uỷ thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng
khăng thực hiện những ý định của mình. Năm
38 tuổi,
ông trở thành một bác sĩ
y khoa thực
thụ. Năm 43 tuổi, ông
đến
Phi Châu mở một bệnh viện
cạnh bờ rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích đạo. Tại đây, ròng rã suốt hơn bốn mươi
năm trời, ông đã dùng hết tài năng và sức lực để
đêm ngày tận tuỵ săn sóc những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh tật, với tất cả tình yêu thương và lòng nhân ái. Sau cùng
ông đã chết ở đó vào
năm 1965, hưởng thọ 90 tuổi.
Thưa anh chị em, động
lực nào đã khiến ông Schweitzer quay lưng lại với danh vọng
và của cải trần
gian để dấn thân làm
việc
cho đám dân cùng khổ nhất
trong đám dân nghèo ở Phi Châu?
Theo lời ông, thì một trong những động cơ
thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của
Chúa Giê-su. Ông đã lắng nghe tiếng
gọi của Chúa và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu như có lần ông
đã phát biểu: “Tôi không thể hiểu
được tại sao tôi
lại
được phép sống một cuộc
đời hạnh phúc như
thế,
đang khi chung quanh tôi còn biết bao người
đang quằn quại trong đau khổ”.
3. SUY
NIỆM:
1)
ĐỨC GIÊ-SU VỀ MIỀN GA-LI-LÊ:
Khởi
đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức
Giê-su đã không chọn thủ
đô Giêrusalem, tuy hầu hết
theo đạo Mô-sê,
nhưng vua chúa thì độc ác, đã từng tìm bách hại Người ngay từ khi mới
sinh và gần
đây còn ra lệnh
chém đầu
Gio-an là vị Tiền
Hô dọn đường
cho Người. Còn
các đầu mục Do thái là các thượng tế, kinh sư, và biệt phái thì lòng chai dạ đá, không chấp nhận
một Đấng Thiên
Sai không theo ý mà họ đang mong chờ.
Đức
Giê-su đã chọn
Galilêa là vùng dân ngoại
sống lẫn lộn với dân Do thái, nhưng lại sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Nước Trời
của Người. Galilêa còn là miền đất bị người
Do thái khinh miệt,
coi là của
ngoại bang. Ngay từ ban đầu Đức Giê-su
đã không đóng khung Tin Mừng
Nước Trời trong Đền thờ, vì
Người muốn Giáo
Hội Người thiết
lập phải không ngừng ra đi, đến với mọi
dân tộc,
ngôn ngữ,
nhất là đến
với những người nghèo khó, bệnh tật, tội lỗi và bị bỏ rơi.
2)
ĐỨC GIÊ-SU KÊU GỌI 4 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN:
Đức
Giê-su không làm việc một mình,
nhưng Người muôn cho có nhiều người
cùng hợp tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người mời gọi
hai anh em Si-mon Phê-rôvà An-rê: “Các
anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những
kẻ lưới người như lưới
cá”. Người cũng gọi hai anh em con ông Giê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đi theo làm môn đệ của Người
(x. Mt 4,19-21). Sau đó Người vào giảng dạy trong các hội
đường Do thái, rao giảng Tin Mừng
và chữa hết các bệnh hoạn tật
nguyền của dân (x. Mt 4,23). Người không đóng khung ở một nơi, nhưng luôn đi từ
làng này sang làng khác, để thi hành sứ vụ như Người đã nói: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt
để làm việc đó” (Mc 1,38).
3) TIÊU CHUẨN CỦA NGƯỜI TÔNG
ĐỒ THỜI
CHÚA GIÊ-SU:
Đức
Giê-su không lựa
chọn môn đệ ở
trong Đền thờ, nơi có nhiều nhà thông hiểu Kinh thánh và Lề luật, nhưng chọn môn
đệ là
những người thuyền
chài ít học,
sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
- PHẢI CÓ TINH THẦN TỪ BỎ: Bài Tin Mừng hôm
nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ
biển, Ngài đã gọi hai ông Si-mon và An-rê: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như
lưới cá”. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gio-an
. Thái độ của họ là lập tức bỏ
chài lưới, bỏ ghe thuyền,
bỏ cha già và những người
làm công mà đi theo làm môn đệ Người
(x. Mt 4,20.22);.
- CÁC ĐỨC TÍNH CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ: Ngoài việc từ bỏ
mọi sự, các ông còn cần tin Đức
Giê-su
chính là Đấng Thiên Sai (x. Mt
16,16) và trung thành theo Người
đến cùng (x. Ga 6,67-69); Các ông phải có lòng khoan dung tha thứ lỗi lầm của kẻ khác và biết tế nhị khi sửa lỗi cho
nhau (x. Mt 18,15-17); Phải có tinh thần khiêm hạ để
phục vụ tha nhân noi gương Đức Giê-su (x. Mt 20,24-28); Phải có lòng mến Thầy
hơn những người khác (x. Ga 21,15-17), vì lòng mến là
điều kiện cần phải
có
để được Chúa tha tội (x. Lc 7,47) và để có thể hăng
say rao giảng Tin Mừng (x. 2 Cr 5,14); Cần biết xin ơn
Chúa
trợ giúp: “Vì không có Thầy
anh em chẳng làm gì được” (Ga
15,5); Phải khôn ngoan phòng
tránh các cạm bẫy và luôn công minh chân thật để
gây được thiện cảm với mọi người (x. Mt 10,16); Phải
can đảm để làm chứng cho Chúa (x. Mt 10,23) và không chùn bước trước các đe dọa cấm cách (x. Mt 10,26-31); Phải sống yêu thương hiệp nhất với nhau, vì là dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Đức Giê-su (x. Ga 13,34).
4) HÀNH TRÌNH LOAN BÁO
TIN MỪNG HÔM NAY:
Đức Giê-su đã kêu gọi các môn đệ và
các ông đã mau mắn đáp trả bằng việc
từ bỏ mọi sự mà
đi theo, để được sống thân tình với Người, được Người sai
đi thực tập truyền giáo và cuối cùng phải “Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem,
kêu gọi
họ sám hối để được
ơn tha tội” (Lc 24,46-47).
Loan báo Tin Mừng trong thế
giới và trong xã hội Việt Nam
hôm nay, không phải chỉ lo về
số lượng là nhiều người
lương chịu phép rửa tội, nhưng
trước hết phải có
chất
lượng là thấm nhuần
tinh thần Phúc Âm trong tư tưởng lời nói, cách ứng xử của mỗi tín hữu. Rồi phải lo đưa tinh thần
lối sống hiệp nhất yêu thương vào trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của mình.
4. THẢO
LUẬN:
1) Kèm theo lời
giảng, Đức Giê-su đã chữa bệnh
và trừ quỷ. Theo bạn, người rao
giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm
theo việc rao giảng, để dễ được
người nghe đón nhận ? 2) Hôm nay, bạn sẽ
đáp trả tiếng Chúa thế nào khi được
mời tham gia các sinh hoạt hội họp cầu
nguyện và làm công tác trong các hội đoàn
tông đồ?
5. NGUYỆN
CẦU:
LẠY CHÚA
GIÊ-SU. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con biết chiếu
ánh sáng của Chúa qua thái độ luôn tươi cười, ngay cả
những lúc xem ra cuộc đời không mỉm
cười với chúng con. Xin cho chúng con
biết yêu mến cuộc sống, dù không phải lúc
nào cuộc sống cũng là màu hồng
đáng yêu. Thực ra, chúng con luôn có nhiều
lý do để lo âu chán nản và muốn bỏ
cuộc. Nhưng xin Chúa đừng để nụ
cười bị tắt
trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý thức rằng:
“Một vị thánh buồn là
một vị thánh đáng buồn
!”. Ước gì chúng con luôn thấy mình thật
hạnh phúc vì được Chúa yêu thương.
Xin cho chúng con luôn mang niềm vui của Chúa, để
làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp trường
học con đang sống được tràn đầy niềm vui và ơn cứu
độ của Chúa.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM
|