CHUYỆN GIÁNG SINH
CON CHÚA LÀM NGƯỜI GIAO HÒA TRỜI ĐẤT
TỘI NHÂN HẠNH PHÚC ĐỔI MỚI XÁC HỒN
Lễ Giáng sinh có thể
gọi chính xác là ngày nghỉ của các giác quan. Đây là mùa
của đèn nến và kim tuyến, thánh ca và ca đoàn,
hương vị của cây thông và hạt dẻ nướng.
Giáng Sinh đến với chúng ta với những bữa
ăn ngon, những tiếng cười vui vẻ, và những
nụ hôn dưới cây tầm gửi. Khung cảnh Giáng
Sinh được trang trí lộng lẫy khắp nơi, từ
thôn quê tới thành thị, vô số những tấm thiệp
được gởi để chúc mừng nhau. Hơn
2.000 năm qua, thế giới đánh dấu việc giáng
sinh của Chúa Giêsu là lễ hội vui mừng nhất. Không
có ngày nào trong năm vui mừng như vậy.
Chưa một Công đồng nào hoặc một Giáo hoàng nào công bố như vậy. Nhưng mỗi
năm, Giáng Sinh đến
như làn gió Đông bất
ngờ thổi vào Tháng Mười Hai, như ánh nắng lấp lánh phản chiếu trên tuyết trắng xóa. Cảm giác rất lạ,
đang từ mùa Đông cằn cỗi tới mùa ánh sáng vui mừng.
Giáng Sinh đầu tiên – ngày Chúa Giêsu
giáng trần – là “cú sốc” đối với lịch
sử nhân loại.
Trải qua nhiều thế kỷ, nhân
loại đã sống và đã chết trong tội mà không
biết, cảnh khốn khổ
của thế gian này không thể tránh khỏi
và niềm vui quá
ít mà mau qua. Giáng Sinh tới,
lịch sử được chia làm đôi: Trước ngày đó (trước Công nguyên), và sau ngày
đó (sau công nguyên). Thế
giới hoàn toàn thay đổi. Vì Ơn Cứu
Độ khởi đầu từ khi Thiên Chúa hóa
thành nhục thể, khi Thiên
Chúa hạ sinh tại Belem.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta
trên thế gian này.
Thánh Gioan khởi đầu
Phúc Âm bằng cách
diễn tả một Thiên
Chúa rất quyền
năng, rất xa xôi, nhưng Ngài đã vượt qua tất cả vì
yêu thương nhân loại:
“Lúc khởi đầu đã có
Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về
Thiên Chúa, và Ngôi Lời
là Thiên Chúa. Lúc khởi
đầu, Người vẫn hướng về Thiên
Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được
tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là
sự sống, và
sự sống là
ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu
soi trong bóng tối,
và bóng tối
đã không diệt
được ánh sáng” (Ga 1:1-5).
Đó là Thiên Chúa mà chính
các triết gia ngoại
giáo cũng biết, họ
gọi Ngài là Động
Lực Đầu Tiên, Tạo Hóa, Thượng
Đế. Kịch bản của Thánh Gioan lên tới đỉnh điểm: “Ngôi
Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga
1:14).
Đây là tin “giật gân”. Từ trời cao xa, từ thời
điểm xa nhất, chính Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và “cắm lều” ở giữa Dân
Ngài. Từ đời đời,
Thiên Chúa là Ngôi Lời,
nhưng không ai nắm
bắt được Ngôi Lời. Bây giờ
Ngài hóa thành Hài Nhi, và người ta có thể
bồng bế hoặc ôm ấp Hài Nhi.
Theo sự thật lạ lùng của Kitô giáo, không gì táo bạo như điều này:
Ngôi lời sinh ra tại một
ngôi làng nhỏ, trong một
hang đầy thú vật,
vào một đêm
vừa lạnh giá vừa tăm tối. Ngôi Lời đã làm người và đã thay đổi mọi thứ. Điều
này làm cho lễ Giáng
Sinh trở thành lễ gây sốc nhất trong lịch.
Ý nghĩa lễ Giáng Sinh được gom lại trong điều
này. Thiên Chúa đã sống
trong một gia đình như chúng ta. Ngài cũng run
người vì lạnh như chúng ta. Ngôi-Lời-mặc-xác-phàm cũng
đã bú sữa mẹ
như các em bé khác, cũng khóc lóc khi cơ thể bất an. Hoàn toàn như
chúng ta, chỉ trừ tội
lỗi.
Truyền thống cho chúng ta biết rằng Thánh Gioan viết đoạn mở đầu
cho Phúc Âm của ngài
khi được linh hứng
cao độ. Bạn bè của ngài đã bảo
ngài viết chuyện
đời Chúa Giêsu, thế nên ngài bảo
họ ủng hộ ngài bằng cách ăn chay và cầu nguyện. Khi ăn chay xong, Thần Khí ngự xuống trên Thánh
Gioan, và ngài như không còn là chính mình. Ngôn từ cứ tuôn trào – có thể chính là những từ mà ngài cố gắng tìm mà chưa bao giờ tìm được.
Chúng ta có thể thấy lạ trong giọng
điệu khi ngài nói với chúng ta rằng
Ngôi Lời trở nên
người phàm. Khi
ngài viết, hẳn là
ngài cũng cảm thấy
rất hưng phấn, như lần đầu đến
nhà của thợ mộc
Giêsu ở làng
Nadarét, Đấng
Được Xức Dầu, Con Thiên Chúa.
Sự ngạc nhiên này cũng có
trong thư thứ nhất
của Thánh Gioan. Theo truyền thống, Thánh Gioan viết lá thư đó 66 năm sau khi Chúa Giêsu về trời, nhưng vẫn có
sự ngạc nhiên
trong lối hành văn
của ngài. Ngài vẫn như thể không
tin được rằng
“điều đó là từ khởi đầu” cũng là “điều mà chúng ta nghe, thấy và sờ được”.
* * *
Trong thời Giáo hội sơ khai, lễ Giáng Sinh không
là lễ quan trọng. Cuộc
đời Chúa Giêsu vẫn
là ký ức sống, và
sự phục sinh của
Ngài vẫn chiếm vị
trí trung tâm trong lịch.
Nhưng theo thời gian, các thầy dạy giả mạo bắt đầu không
chịu nhận nhân
tính nơi Chúa Giêsu. Họ
cho rằng cơ thể Chúa Giêsu là cách cải trang tinh vi, chứ Thiên
Chúa không bao giờ hạ giá
chính Ngài bằng cách “mặc lấy xác phàm”. Sau
đó, các tà thuyết từ
chối việc Đức Mẹ sinh ra Ngôi Lời. Họ nói rằng Đức Mẹ sinh ra
“thùng” chứa đựng
Ngôi Lời. Các tà
thuyết vẫn cho rằng
Chúa Con là phần phụ,
như thần thánh, chứ không đồng
bản thể và vĩnh hằng với Chúa Cha.
Các tà thuyết này có một điểm chung: Không chấp nhận việc làm
người của Con Thiên
Chúa. Arius là người lập
ra tà thuyết Arian, ông
là người giỏi về
luận lý. Ông từ
chối tín điều
Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi), ông cho rằng ba không thể là một, đó là số
học sơ đẳng. Thiên Chúa vô hạn không thể làm người hữu hạn, đó là
triết học sơ đẳng.
Do đó không thể có
việc Thiên Chúa làm
người.
Những người lạc giáo
như Arius muốn dành
cho Thiên Chúa sự sỉ nhục
không thể lý giải của sự lệch lạc
vì kết hợp quá
sát với bản tính
nhân loại. Đó cũng
là vấn đề
tương tự mà nhóm Pharisêu không thể vượt qua: Nếu Ông
Giêsu này quá tốt, tại
sao Ngài thân thiết với
người tội lỗi và người thu thuế? Thật vậy, mặc
dù những người
theo tà thuyết
khăng khăng cho rằng họ bảo vệ sự hoàn
hảo của Thần tính,
họ vẫn thực sự
từ khước sự hoàn hảo của tình yêu Thiên Chúa. Cuối cùng, tình yêu có thể có vẻ bất khả lý luận. Bất kỳ ai đánh giá người khác như chính mình đều có vẻ hoàn toàn thái quá.
Hầu như không thể trùng khớp việc kỷ niệm ngày
sinh của Chúa Giêsu
theo lịch sử và
theo nghĩa đen, Ngài là con bác thợ mộc bắt đầu đảm trách việc quan trọng hơn khi
đức tin đích thực bị choán bởi các sai lầm
rất nguy hiểm là từ chối việc hóa thành nhục thể. Mừng Con Thiên
Chúa giáng sinh là tách điều
chính thống với tà
thuyết. Mừng Chúa
Giáng Sinh đưa Giáo hội
tới nguyên tắc rõ
ràng.
* * *
Từ đầu, không có sự thống nhất về ngày
lễ Giáng Sinh. Giáo hội ở Ai Cập đặt
ngày Đức Kitô
giáng sinh vào tháng Tư hoặc
tháng Năm. Các Giáo hội
khác đặt vào
tháng Ba, hoặc bất kỳ
tháng nào mà họ thích.
Điều cũng phổ
biến là kết hợp
lễ Giáng Sinh với
lễ Hiển Linh (Ba Vua), đặt cả hai lễ này
vào ngày 6 tháng 1. Nhưng khoảng
thập niên 400, lễ
Giáng Sinh được
ấn định ngày 25 tháng 12 cho tới ngày nay.
Có ít nhất ba giả thuyết về lễ
Giáng Sinh được
mừng vào ngày 25 tháng 12. Cả ba đều hợp lý.
Giả thuyết thứ nhất
đơn giản nhất. Chuyện xưa kể rằng,
khoảng năm 350, ĐGH Julius I tìm ngày Chúa Giêsu giáng
sinh trong hồ sơ điều
tra dân số. Không
thấy trong hồ sơ có
thông tin về 350 năm sau
đó. Chúng ta biết
qua Phúc Âm theo Thánh Luca rằng Chúa Giêsu sinh ra trong thời gian điều tra dân số. Người Rôma, với sự tôn trọng mệnh lệnh, có
thể đã giữ hồ sơ quá kỹ ở nơi nào
đó tại Rôma nên
không thể phát hiện.
Giả thuyết thứ nhì cho rằng các Kitô hữu không thể bỏ lễ kỷ niệm giữa
mùa Đông của
người ngoại giáo, nên dùng ngày đó luôn. Xuyên suốt lịch sử, người
ta đã bỏ qua những
ngày ngắn trong năm
như ngày Đông chí hoặc Hạ chí. Khi ngày bắt đầu dài trở lại, nghĩa là mùa Đông cũng qua, và thế giới sẽ tái
sinh vào mùa Xuân.
Nguồn gốc ngoại giáo của ngày này không làm chúng
ta thành xấu xa. Thật vậy,
nhiều truyền thống Kitô giáo đã có nguồn gốc từ ngoại giáo.
Chẳng hạn cây
Giáng Sinh không liên quan gì tới
ngày Chúa Giêsu giáng sinh, nhưng chắc chắn mang ý nghĩa là nghi lễ giữa mùa Đông của ngoại giáo: Nhờ sự thông cảm, chúng ta đem tinh thần này vào ngày lễ bằng một cây
xanh – cây này vẫn sống
khi các cây khác đã chết
khô. Và đó cũng là biểu tượng xứng hợp đối với các
Kitô hữu. Cây xanh là
phép ẩn dụ minh nhiên
về niềm hy vọng của
cuộc sống mới mà Đức Kitô mang lại
cho chúng ta.
Còn nữa, đèn nến mà chúng ta thắp sáng khắp nơi trong lễ Giáng Sinh
có thể là sự sống còn của nghi lễ ngoại giáo
– một lần nữa lại
là dạng thông cảm, lửa thắp sáng
để làm mặt trời chết sống
lại. Nhưng ánh sáng luôn là biểu tượng ưa thích của Kitô giáo.
Chúng ta biết rằng Giáo hội thời sơ khai thường
lợi dụng niềm tin hoặc tục lệ của dân
địa phương
để loan truyền Phúc Âm. Chính Thánh Phaolô đã có một câu nổi tiếng được khắc
trên bàn thờ dâng
kính một vị thần ở
A-thê-na (Athens): “Thưa quý vị người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt,
quý vị là
người sùng
đạo hơn ai hết.
Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của
quý vị, tôi
đã thấy có
cả một bàn
thờ, trên
đó khắc chữ:
Kính thần vô
danh. Vậy Đấng
quý vị không
biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17:23). Tinh thần của Thánh
Phaolô có rất nhiều
trong Giáo hội trong việc
phát triển cách
hiểu của Kitô
giáo về các lễ hội được
ưa thích của
người ngoại giáo, giải thích cho những
người chuyển đạo rằng họ thực sự
tôn thờ không chỉ Thần ánh sáng mà là
Chúa Nguồn Sáng.
Giả thuyết thứ ba giải thích
về ngày 25 tháng 12 là
nó thích hợp với khái
niệm của Giáo hội sơ khai về sự sống
hoàn hảo của Chúa
Giêsu. Truyền thống nói
rằng Chúa Giêsu chết ngày 25 tháng 3. Các thần học gia lý luận rằng, để sự
sống của Ngài hoàn hảo, Ngài cũng phải được thụ thai vào ngày 25 tháng 3, rồi sinh ra 9 tháng sau
đó.
Ý tưởng về sự sống của
Chúa Giêsu có sự hoàn
hảo về mỹ học
phải làm thỏa mãn
thời đại cho tới
thời triết học tân Platon. Điều đó đã làm thỏa mãn các nhà thông thái cũng
như lễ hội giữa
mùa Đông làm thỏa
mãn tình cảm của
dân chúng.
Các giả thuyết này đều có thể là thật. Chẳng hạn, người
ta tưởng tượng rằng Đức giáo
hoàng đã khám phá ngày tháng trong cuộc điều tra dân số, và Giáo hội
lợi dụng sự thích hợp đó với
ngày tháng của lễ
hội ưa thích của
người ngoại giáo, cũng như các Kitô hữu lợi dụng tính
cân xứng với ngày
chết của Chúa
Giêsu. Các Kitô hữu đã
tới các quốc gia theo cách mà các quốc gia đã được chuẩn bị để
nghe biết. Nhờ đưa ra cách hiểu về Kitô giáo đối với phong tục địa
phương hoặc ý tưởng triết học hợp lý, Giáo hội đã cho những người mới theo đạo
cách hiểu lịch sử
của việc Chúa giáng sinh theo cách mà họ có thể hiểu.
* * *
Khi lễ hội này lan tràn khắp các nước mới gia nhập Kitô giáo
ở Âu châu và Đông
phương, người
ta gom các phong tục
ngoại giáo cổ
xưa hơn và tạo
cách hiểu mới. Lễ
Giáng Sinh lan truyền tới
đâu thì đều có
vẻ mới nhưng vẫn
quen thuộc với những người mới theo đạo.
Có thể chính sự quen thuộc đó
đã làm cho lễ Giáng
Sinh được người
ta yêu thích.
Khoảng năm 1100, lễ Giáng
Sinh đã trở nên lễ quan trọng nhất trong
năm. Suốt thời Trung cổ, lễ Giáng Sinh
được cử hành
ở khắp nơi với
những cảnh đẹp lộng lẫy và niềm vui mừng. Người
ta hát những bài
ca giáng sinh mà họ thích;
những đám rước nhộn nhịp qua các
con đường nhỏ ở
các thành phố thời
Trung cổ; và bất
kỳ nơi nào cũng tỏa mùi thơm từ
những món ăn mừng
lễ Giáng Sinh.
Tuy nhiên, với cuộc Cải cách
Tin Lành, có những thay đổi
về văn hóa. Họ
hăng hái chống lại
mọi sự lạm dụng trong Giáo hội, nhiều nhà cải cách đã nhắm vào lễ Giáng Sinh chỉ là một trong các lễ
hội ngoại giáo. Theo nghĩa nào đó, dĩ nhiên họ đúng: Nhiều truyền thống có
nguồn gốc ngoại giáo.
Nhưng các phe chống lễ
Giáng Sinh đã chỉ
phê phán bằng “cái
gốc” đáng lẽ họ phải phê
bình bằng “hoa trái”.
Khi những người theo Thanh giáo chiếm lĩnh ở Anh quốc,
họ đã cấm lễ
Giáng Sinh. Các cửa tiệm
phải mở toang ra. Bất kỳ ai bị phát hiện một miếng bánh
nào sẽ gặp rắc rối.
Người Thanh giáo cho rằng các loại
bánh khúc cây, bánh mận,
và những bài hát
giáng sinh tạo nên lễ Giáng Sinh truyền thống Anh quốc đều
không là gì khác ngoài việc
tôn sùng ngẫu tượng
ngoại giáo, thế
thì phải dẹp bỏ.
Có một số
người phản đối, thậm chí một số người còn
sẵn sàng chết vì bảo vệ lễ Giáng Sinh, nên
dân chúng vẫn theo truyền
thống dùng lễ Giáng
Sinh là ngày nghỉ – nhưng người Thanh giáo
vẫn chiếm ưu thế,
dù chỉ trong một
thời gian ngắn.
Để phản kháng, người Thanh giáo ra lệnh rằng lễ Giáng
Sinh phải là ngày
ăn chay. Truyền thống
này không bao giờ
được tiếp nối. Dễ dàng nói rằng việc ăn chay không
bao giờ được
theo vì tính yếu
đuối nhân loại
– cuối cùng,
người ta thích
ăn mừng lễ hơn
ăn chay vì tự nhiên
như người ta thích
vui hơn thích buồn.
Nhưng Mùa Chay không bao giờ bị bỏ ra ngoài lịch. Các Kitô hữu
tốt lành sẵn sàng
chịu đựng sự
từ bỏ mình khi thích hợp. Nhưng điều đó có vẻ không thích hợp với lễ Giáng Sinh.
Có điều người Thanh giáo
không hiểu, và có
điều nhiều người
tốt vẫn không hiểu,
đó là không có sự
mâu thuẫn giữa việc
tôn thờ Thiên
Chúa và tận hưởng sự
sáng tạo của Thiên
Chúa. Không gì xấu để
tận hưởng những điều tốt lành mà
Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Phép lạ thứ nhất của Chúa Giêsu là hóa nước thành rượu – mà không chỉ là rượu thường, thánh Gioan tỉ mỉ cho biết đó
là loại rượu hảo
hạng. Rõ ràng Con Người có vị giác
rất tốt theo nhân
tính.
Một số các Kitô hữu sai lầm như Thanh giáo
đều xấu hổ vì
hiểu đức tin với
niềm vui trần tục. Nhưng mầu nhiệm Chúa
Giáng Sinh là mầu nhiệm
Ngôi Lời làm
người. Thánh
Athanasiô nói rằng chữ
“nhục thể” (xác thịt) là sự chính
thống anh hùng vô
địch khi những
đám mây tà thuyết
có vẻ đen tối
nhất, “nhục thể không loại bỏ vinh quang của Ngôi
Lời, tư tưởng
còn xa hơn. Ngược
lại, nhục thể được Thiên Chúa làm cho
vinh quang”.
Một số các Giáo phụ gọi lễ Giáng Sinh là lễ Hóa Thân, theo nghĩa gốc tiếng Latin. Khi Thiên
Chúa mặc xác phàm,
chính nhục thể trở
thành vật thánh,
là điều được
cử hành bằng hình
ảnh, tượng và
thiệp giáng sinh.
Thế kỷ VIII, một bè rối nổi lên trong Giáo hội và tự nhận là “Iconoclasts”, tiếng Hy Lạp nghĩa là
“những người đập
nát hình ảnh” (tức
là phá ngẫu tượng).
Họ cố gắng “thanh lọc” và “tâm linh hóa” đời sống Kitô giáo bằng cách xóa bỏ mọi biểu tượng về
Chúa Giêsu, Đức Mẹ,
và các thánh. Họ phá
hủy mọi hình ảnh tôn giáo trong thời Đế quốc La Mã
Đông phương, và họ
chặt tay các Kitô hữu
nào không loại bỏ
các ảnh tượng.
Họ nói rằng Thiên
Chúa không thể được
thể hiện qua ảnh tượng; ai làm vậy là thờ ngẫu tượng. Nhưng
đây là cách mà Thánh Gioan thành Damascô trả lời họ: “Thời
xưa, Thiên Chúa không được thể hiện bằng bất
kỳ cách nào. Nhưng ngày nay, vì Thiên Chúa đã mặc xác phàm và sống giữa chúng ta, tôi
có thể biểu hiện
điều nhìn thấy ở Thiên Chúa. Tôi không tôn thờ chất liệu, mà tôi tôn
thờ Đấng tạo
nên chất liệu
và trở nên
chất liệu vì
tôi… Qua chất liệu,
Ngài hoàn tất
ơn cứu độ cho tôi”.
Nói cách khác, sự “hóa thân” làm thành nghệ thuật, và cũng
là đồ thánh, cũng
như điều đó
làm cho cơ thể thành
vật thánh. Các họa sĩ đã vẽ tranh giáng sinh qua nhiều thế kỷ mà
không tạo ra ngẫu
tượng. Cách thể
hiện của họ là những bài Thánh Thi (hymns) ca tụng Thiên Chúa vô hình được làm thành hữu hình.
Nhìn vào bất kỳ tranh giáng sinh
cổ điển nào
đều có thể cảm nhận Thiên
Chúa. Mỗi con vật trong
hang đá là một thụ
tạo; mỗi cọng rơm trong máng cỏ đều được rút
ra bằng sự cẩn thận
vô cùng. Trong các cảnh
của Kinh thánh, các họa
sĩ đã yêu quý vẽ
ra từ nhiều thế kỷ qua, lễ Giáng Sinh gợi nhớ sự vui mừng
nhất trong niềm vui vẽ tranh, và Thiên Chúa hiện hữu trong từng chi tiết
đó.
* * *
Câu chuyện giáng sinh của mọi người là câu
chuyện trong Phúc Âm
theo Thánh sử Luca. Điều
làm cho câu chuyện
đó được
yêu mến là sự thân thiện. Thánh Luca có vẻ như viết cho dân ngoại, cố gắng tới
đúng chỗ Chúa
Giêsu sinh ra về
phương diện lịch sử và địa lý. Chúa Giêsu giáng sinh không là
một ẩn dụ hoặc
ngụ ngôn như những
câu chuyện thời
Trung cổ, mà đó là sự kiện thật ở nơi thật mà lịch sử có thể chứng minh.
Thánh Luca tiếp tục cho chúng ta thấy kỹ năng viết của
một sử gia, chính xác các chi tiết mà chúng ta cần biết về sự giáng
sinh của Chúa Giêsu.
Chúng ta biết Thánh
Giuse và Mẹ Maria cảm thấy
thế nào khi không có chỗ trọ, và các ngài vui thế nào khi tìm được cái hang chiên lừa, và khiến
chúng ta cũng cảm
thấy như Thánh Giuse và Mẹ Maria. Rất chi tiết. Còn các tác giả Phúc Âm khác không cho
chúng ta biết chi tiết
như vậy, mà chỉ
nói các điểm chính.
* * *
Ngôi Lời hóa thành nhục thể không chỉ là sự kiện một lần trên Thập giá hoặc Thăng thiên. Đức Giêsu Kitô không chỉ đến trong thế
gian ở một nơi đặc biệt và vào thời điểm đặc biệt,
mà Ngài còn thiết lập
Giáo hội là Nhiệm Thể Ngài trên thế gian này. Các cộng đoàn tín hữu sinh sống ở mọi
nơi trên hành tinh này – họ là các chi thể
của Đức Kitô. Nếu bạn muốn biết Chúa Giêsu như thế nào, hãy vào nhà thờ và nhìn xung quanh bạn.
Hơn nữa, chúng ta còn gặp Đức Kitô hiện thân trong Bí tích Thánh
Thể, vì Ngài nói: “Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6:55). “Hóa thân” không là điều trừu tượng –
đó là điều “cụ
thể kỳ diệu” trong đời sống thường
nhật của chúng ta. Điều đó không chỉ xảy ra hơn hai ngàn năm trước mà vẫn đang xảy ra từng ngày
trong thời đại chúng
ta ngày nay.
“Hóa thân” là “hiện thân” của tình yêu hiện hữu trong những điều
thực tế mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta. Đó không
chỉ vì sự hiểu biết của phàm
nhân yếu đuối mà
các bí tích đều
được cử hành bằng các dấu bề
ngoài. Chúa Con đã hóa điều đó nên sự
thánh.
Chính trong Thánh Thể, chúng ta thấy sự nuôi dưỡng dành cho tinh thần được mô tả trong dạng sơ đẳng
nhất của sự nuôi dưỡng dành cho thân xác. Thiên Chúa vĩnh
hằng hiện ra với
chúng ta trong dạng tạm
thời của bánh và rượu: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây
là mình Thầy. Tất
cả anh em hãy uống
chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26:26-28). Khi cử hành Bí
tích Thánh Thể, chúng
ta được gợi nhớ
rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã trở nên xác thịt thực sự để xẻ
ra và máu thực sự
để đổ ra.
Sự hóa thân đó cho chúng ta cảm thấy niềm vui thực
sự thích hợp với
lễ Giáng Sinh. Qua sứ
vụ của Ngài, Chúa Giêsu thành Nadarét đã chữa lành các bệnh nhân và làm no thỏa những người đói
khát. Ngài yêu thương chúng ta không chỉ để đưa chúng
ta về Thiên đàng với Ngài, mà Ngài còn muốn chúng ta tận hưởng hạnh phúc
ngay khi chúng ta còn sống trên
thế gian này. Ngài
chỉ yêu cầu chúng ta một điều duy nhất là
yêu mến Ngài,
đồng thời yêu
thương tha nhân như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Người ta vẫn thấy dấu vết
của tình yêu Kitô trong các phong tục cổ và thói quen tặng quà giáng sinh. Việc mua thiệp giáng sinh cũng là sự thôi thúc của Kitô giáo là “trao tặng”, như Chúa Giêsu đã dạy: “CHO thì có phúc
hơn là NHẬN” (Cv 20:35).
Chúa Giêsu luôn thấy điều tốt
nơi chúng ta và tha thứ
lỗi lầm cho chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta phải làm cho người khác hạnh phúc. Chúng ta hãy cầu nguyện cho điều
đó hiện thực
nơi mỗi chúng ta.
Đây là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta: Chúng ta có thể xác để dùng nó mà thờ lạy Thiên Chúa, như
Đức Giêsu thành
Nadarét đã làm. Chúng ta có thể
xác để dùng
nó mà phục vụ tha nhân,
như Đức Giêsu
thành Nadarét đã làm. Chúng ta có thể xác để
dùng nó mà đem lại
sự thuận lợi, an ủi và chữa lành, như Đức Giêsu thành Nadarét
đã làm. Chúng ta có thể xác
vì mục đích làm
vinh danh Thiên Chúa.
Lễ Giáng Sinh chan hòa niềm vui: “Vinh danh Thiên
Chúa trên trời, bình
an dưới thế
cho loài người
Chúa thương” (Lc 2:14). Chúa Giêsu sinh ra nơi hang
bò lừa hôi tanh cho những gia đình lao động nghèo. Đó là điều vinh dự đích thực. Không gì lý tưởng bằng việc Chúa
Giêsu giáng sinh làm người.
Con Thiên Chúa sinh ra theo cách rất ư bình thường, thậm chí còn tệ hơn bình thường. Những người đầu tiên biết Tin Vui này là những mục đồng
chăn chiên nghèo khổ,
chứ không phải những
người cao sang quyền thế hoặc hoàng đế Augustô tại dinh thự ở Rôma, cũng
chẳng phải bạo chúa
Hêrôđê. Đó là sự kỳ
diệu của Ngôi-Lời-Làm-Người: Ngôi Lời thực sự là người như chúng ta.
Câu chuyện giáng sinh là câu chuyện kể về cách mà
xác thịt hóa thành
thánh thiêng, thân xác được
thánh hóa, và niềm vui
trần tục trở nên thánh ca chúc tụng Thiên Chúa. Như vậy, lễ Giáng Sinh là lễ dành cho ngũ quan.
Chúng ta thích nghe đi nghe lại
câu chuyện Chúa Giêsu
giáng sinh mà không chán, và câu chuyện đó vẫn
ở mãi trong chúng ta.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ
FathersOfTheChurch.com)
[Đăng báo ĐMHCG
số 400, tháng
12-2019, DCCT xuất bản tại
Hoa Kỳ]
|