HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
Is 7,10-14 ; Rm 1,1-7 ;
Mt 1,18-24
THÔNG
ĐIỆP YÊU THƯƠNG CỦA
ĐẤNG EMMANUEN
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG:
Mt 1,18-24.
(18) Sau đây là
gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ
Người, đã thành hôn với ông Giu-se.
Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống,
bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh
Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người
công chính và không muốn tố giác bà, nên mới
định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20)
Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ
thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông
rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít,
đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ
ông về, vì người con bà cưu mang là
do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ
sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là
Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân
Người khỏi tội lỗi của họ. (22)
Tất cả sự việc này đã xảy
ra, là để ứng nghiệm lời xưa
kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) “Này
đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một
con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng
ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ
thần Chúa dạy và đón vợ về
nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho
đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt
tên cho con trẻ là Giê-su.
2. Ý
CHÍNH:
Bài Tin Mừng
hôm nay đề cao đức công chính của thánh
Giu-se, biểu lộ qua cách ngài
xử lý trước việc thụ thai
lạ lùng của Đức Ma-ri-a.
3. CHÚ
THÍCH:
- C
18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của
Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức
Giê-su. + Đã thành hôn với ông Giu-se:
Theo phong tục Do thái, nghi lễ đính hôn cử
hành trước lễ rước dâu cả
năm trời. Thường thì hai người
không chung sống trước lễ rước dâu.
Nhưng nếu có con trong thời gian này thì
vẫn được công nhận là con chính thức.
Ở đây cho thấy hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đã
là vợ chồng hợp pháp nhờ lễ
đính hôn. + Nhưng trước khi hai ông bà
về chung sống, bà đã có thai do quyền
năng Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai
của Đức Ma-ri-a không phải do thánh Giu-se.
Trước mặt người đời,
Đức Giê-su được nhìn nhận là
con bác thợ mộc Giu-se, dù thực sự
Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). + Giu-se là người
công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật Chúa cách
trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính
với tha nhân. Sự công chính của Giu-se ở
đây không phải là công chính về Lề Luật,
vì khi quyết định bỏ Ma-ri-a, Giu-se không làm
theo Luật dạy là làm tờ chứng thư
ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó
sự công chính của Giu-se hệ tại điểm
này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên
Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se
không dám cưới một người đã
được Thiên Chúa chọn dành riêng làm việc của Ngài. Ba là
Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi Thần
Linh khi chưa được chỉ thị từ
nơi Thiên Chúa. + Không muốn tố giác bà
nên mới định tâm bỏ bà cách kín
đáo: Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh
nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ
người bạn mà ông biết là rất
trong sạch. Đàng khác vì là người
công chính, Giu-se không dám dành cho mình người
phụ nữ mà Thiên Chúa đã chọn. Ông
phải làm thế nào để vừa bảo
toàn được danh dự cho Ma-ri-a, vừa
giữ được sự công chính ? Cuối
cùng ông quyết định âm thầm bỏ Ma-ri-a
để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng
giữ được sự công minh chính trực trước
mặt
Thiên Chúa.
- C
20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp
thi hành ý định thì Thiên Chúa đã
sai thiên thần đến trấn an và trao sứ
mệnh cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu
Đa-vít: Giu-se được trao sứ
mệnh làm cha để con trẻ Giê-su được
thuộc về dòng dõi Đa-vít, hầu ứng
nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ
ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ
tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên sấm
của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng
Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16). + Đừng ngại
đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người
con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh
Thần: Sứ thần đánh tan sự
e ngại của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông
mau tổ chức lễ cưới đón
Ma-ri-a về làm vợ mình vì việc thụ
thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông
phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su:
Đặt tên cho con trẻ là thừa nhận mình là cha của con về pháp
luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a có nghĩa là
“Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là
tên riêng của nhiều người
khác trong thời Cựu Ước (x. Xh 24,13; Nkm
7,7). + Vì chính Người sẽ cứu
dân Người khỏi tội lỗi của họ:
Sứ mệnh của Con trẻ là cứu dân
khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi
và sự chết (x. Tv 130,8), khác với quan
niệm cứu thế mang tính trần tục mà
dân Do thái đang mong đợi.
- C
22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và
sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của
I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng
Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng
trinh sinh ra. + Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa
ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ
mệnh của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức
Giê-su mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa
dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng
Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa
của Đức Giê-su: “Và đây, Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28,20).
- C
24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng,
Giu-se không còn ngần ngại. Ông lập tức tổ
chức lễ cưới đón Ma-ri-a về
nhà làm vợ như lệnh sứ thần
truyền. + Ông không ăn ở với bà:
Sở dĩ ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm
vợ mà lại không ăn ở với bà
như vợ chồng, vì ông tôn trọng lời
khấn trọn đời đồng trinh của
Ma-ri-a khi “Xin Vâng” để đáp lại lời
Chúa mời gọi làm Mẹ của Đấng
Cứu Thế (x. Lc 1,31.38). + Cho đến khi bà
sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ
là Giê-su: Giu-se đã vâng lời sứ
thần để đặt tên cho con trẻ là
Giê-su.
4. CÂU HỎI:
Một số người
Tin Lành đã dựa vào chữ “cho
đến khi” này để khẳng định:
Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh Hài
Nhi Giê-su như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau
khi sinh, bà lại sống đời làm vợ
của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ chồng,
nghĩa là có ăn ở với nhau và
đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác như
Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra,
người Tin Lành còn dựa vào câu trong Tin Mừng Lu-ca: “Ma-ri-a sinh
con trai đầu lòng”
(x. Lc 2,7).
*GIẢI
ĐÁP:
- Chữ “Cho
đến khi” trong câu này không có nghĩa là
Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho
đến khi bà sinh con, rồi sau đó lại ăn ở như vợ chồng sau khi sinh. Thực ra khi viết câu này, tác giả Mát-thêu
chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện
Giu-se đã không can thiệp gì vào việc
Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của
I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và
sinh con trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không quan tâm việc hai ông bà
sau khi Ma-ri-a sinh con có tri giao vợ chồng hay không qua câu: “Ông không ăn ở với
bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông
đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (c. 25).
- Về chữ
“con trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc
lại khoản luật trong Xuất hành (x. Xh 13,2.12.15)
sắp được áp dụng cho Đức
Giê-su (x. Lc 2,23). Con trai đầu lòng ở đây
chỉ có nghĩa là “đứa con thứ
nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo
genitus) chứ không ám chỉ là sẽ còn có
các người con khác sau này.
- Tin Mừng
Mát-thêu cũng trưng dẫn lời của một người
nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, có mẹ và
anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm
cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12,47). Câu này
tượng tự câu nhận định của
dân làng Na-da-rét về Đức Giê-su: “Anh em
của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và
Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải là
bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mt
13,55-56; Mc 6,3). Thực ra khi thấy Đức Ma-ri-a đi chung với mấy
người khác, người ta nghĩ
đó là những người
bà con, chứ không khẳng định
là anh em ruột thịt của
Người. – Ngoài ra sách
Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các
ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần
cầu nguyện cùng với mấy người
phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu
Đức Giê-su, và với các anh em của
Đức Giê-su” (Cv 1,14). Anh em đây cũng chỉ
là bà con về phía thánh
Giu-se.
- Bằng chứng
cho thấy Đức Giê-su là con trai duy nhất của
Đức Ma-ri-a là trước khi tắt thở trên cây thập tự, Đức Giê-su đã trối Mẹ Người làm mẹ của môn đệ Gio-an và trối Gio-an làm con của Mẹ. Và
“Kể từ giờ đó, người môn
đệ rước bà về nhà mình” (Ga
19,27). Nếu thực sự còn có anh
em khác thì Đức Giê-su đã không trối mẹ cho môn đệ và
Gio-an cũng không thể rước bà về nhà mà
phụng dưỡng thay Thầy Giê-su
được.
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI
CHÚA: Ông Giu-se chồng bà là người công
chính (Mt 1,19)... Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như
sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) GƯƠNG
KHIÊM TỐN VÀ TRUNG THỰC CỦA TỔNG THỐNG
NÍCH-SƠN:
Khi vụ OÁT-TƠ
GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống NÍCH-SƠN
(Nixon) được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm
và đánh giá cao, lại trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn
thắng cử mà Ních-sơn đã làm
ngơ để thuộc cấp nghe lén
điện thoại của
đảng đối lập. Bây giờ bị họ
phát hiện và ghép vào tội nghe lén,
một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ.
Ông mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để
tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi
một ngày nọ, sau khi làm việc ở
văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà,
Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng
riêng. Bỗng ông nhìn thấy cuốn Thánh Kinh
đang nằm trên bàn làm việc. Ông liền cầm
lấy mở ra và đọc được lời
Chúa như sau: “Sự thật sẽ giải thoát
các ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính lời
đó đã nhắc nhở ông phải trung
thực trong hành động. Thế là ông
đã mau chóng có quyết định dứt khoát.
Mấy ngày sau đó, người ta thấy ông
xuất hiện trên truyền hình phát sóng
đi toàn nước Mỹ để nhận lỗi và xin tha thứ.
Ông cũng chính thức xin từ chức Tổng
Thống, một chức vụ đầy quyền lực
và vinh quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước.
Đây là một hành động được
đánh giá là can đảm có một không
hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự
can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi
đó mà dân chúng Hoa Kỳ đã cảm thông với ông và vẫn kính trọng ông như trước.
2) GƯƠNG
KHIÊM TỐN CẦN KIỆM CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ:
Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ là người châu Mỹ La-tinh đầu tiên và cũng là một tu sĩ dòng Tên đầu tiên
được bầu vào vị trí lãnh đạo Giáo
hội
Công giáo.
Tờ báo New York Times (Mỹ) đã nhận định khi bầu chọn Hồng
y GIOOC-DƠ MA-RI-Ô BEC-GÔ-GLI-Ô,
76 tuối,
làm giáo hoàng thứ 266 đã thể hiện quyết tâm mang tính lịch sử của Hội Đồng
Hồng Y là: cải tạo Giáo hội Công
giáo trước nhiều áp lực hiện tại.
Đức Giáo
Hoàng PHAN-XI-CÔ được kỳ vọng sẽ mang lại sự
cởi mở mạnh mẽ hơn cho Giáo hội Công
giáo.
Ngài được sinh ra trong
một gia đình nhập cư gốc
Ý tại thủ đô BUENOS AIRES (Argentina), nổi tiếng là một người khiêm nhường, luôn
lên tiếng
bênh vực người nghèo và có một cuộc sống cần kiệm
khiêm tốn.
Vị Tân Giáo hoàng đã bay đến thủ
đô RÔ-MA nước Ý để tham dự Mật nghị Hồng
y bằng vé máy bay hạng du lịch
rẻ tiền. Sau đó ngài cũng
đã kêu gọi người dân
ÁC-HEN-TI-NA hãy chia sẻ số tiền vé máy bay cho người nghèo, thay vì phải bay đến Rô-ma để chúc
mừng
ngài. Tờ New York
Times đã dẫn lời linh
mục FÊ-ĐÊ-RI-CÔ
LOM-BÁC-ĐI, phát ngôn viên của Vatican, cho biết Giáo hoàng PHAN-XI-CÔ đã có một hành động khiêm
tốn
là đã gọi điện cho vị
Giáo hoàng tiền nhiệm BÊ-NÊ-ĐÍCH-TÔ ngay sau khi vừa được
Mật Nghị bầu chọn làm Giáo Hoàng.
Một phát ngôn viên khác của Vatican, linh mục
THO-MAS RO-SI-CA, cũng thuật lại về cuộc gặp
gỡ với các bạn trẻ
trong Ngày Giới Trẻ Thế giới
(World Youth Day) ở CA-NA-DA cách
đây 10 năm. Khi đó, Đức Giáo Hoàng đang là Tổng giám mục BU-E-NOS AI-RES cho biết: ngài đã bán ngôi biệt thự dành riêng cho Tổng giám mục để ra sống ở một
căn hộ giản dị bên
ngoài Tòa Tổng giám mục. Ngài cũng tự nấu ăn và thường đi lại bằng xe buýt, thay vì đi xe hơi công vụ.
Khi Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ mới được bầu
chọn, Tổng thống Mỹ BA-RACK O-BA-MA là một trong những nhà lãnh đạo thế giới đầu tiên đã gửi lời chúc mừng ngài. Từ Nhà Trắng, ông đã phát biểu về vị Tân Giáo Hoàng như sau: “Với tư cách là nhà vô địch của người
nghèo và những người yếu
đuối, Đức Giáo
Hoàng đã truyền bá thông điệp của lòng yêu thương và sự cảm thông cho thế giới hôm nay”.
3) EM-MA-NU-EN,
THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA :
Một lần
kia, Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA được mời đến thăm nước Ái nhĩ
lan. Mẹ đã được mời nói chuyện thân mật với rất
đông bạn trẻ tại hội
trường thành phố. Trong câu chuyện Mẹ chỉ đơn giản nói về tình yêu của Thiên Chúa nội dung như
sau: “Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn”. Rồi sau đó Mẹ rời
thành
phố để đi nơi khác.
Rồi vào buổi tối hôm ấy một
hồi chuông điện thoại
reo vang trong phòng của cha JOHN, vị
linh mục chuyên lo cho giới trẻ bị
nghiện ngập ma túy. Khi nhấc chiếc
điện thoại lên nghe thì đầu giây bên kia là giọng nói quen thuộc của một thanh niên mà trước đây cha đã từng gặp và khuyên anh quay về với Chúa, nhưng anh vẫn cố
chấp không nghe. Giờ đây anh nói:
“A-lô, con muốn được xưng
tội với cha. Con muốn trở về cùng Hội Thánh”. Khi được hỏi lý do anh đã trả lời như sau : “Thưa cha, vì chiều nay con
đã được nghe Mẹ Tê-rê-sa khuyên
bảo con một lời nói đánh
động lòng con rất nhiều. Tuy Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói chung với mọi người trong đó có con, rằng: “Chúa ở với
các
con”. Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn hỏi: “Ủa, đã nhiều lần cha cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại nghe lời Mẹ Tê-rê-sa ?” Anh
thanh niên chậm rãi giải thích:
- “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó phát xuất từ thẳm sâu trong tâm hồn. Mẹ đã nói với con với
tất cả con tim yêu thương của mình”.
4. YÊU
THƯƠNG PHỤC VỤ DẤU CHỈ CỦA ĐẤNG
EM-MA-NU-EN:
Có một cuốn
phim do một đạo diễn sáng tác mang ý nghĩa rất phù
hợp
với mầu nhiệm Thiên
Chúa ở
cùng chúng ta như sau:
Một Đức Giáo hoàng kia không thích lễ nghi rườm rà trong Tòa Thánh Vatican nên đã cải trang ra khỏi
điện Va-ti-can và đi lạc đến
một ngôi làng hẻo lánh nghèo khó cách xa thành phố, đang bị bệnh
dịch hoành hành bị cách ly với bên
ngoài. Trong làng gần nhà thờ có một cái giếng ngầm
cung cấp nước cho dân
làng bằng
cái cối xay gió. Nhưng bấy giờ cối
xay gió đang bị hư và không ai biết sửa đành phải bỏ không.
Cuộc
sống của dân làng rất khổ cực
khiến giáo dân chỉ lo chữa bệnh
nên không ai đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật và nhà
thờ
bị bỏ hoang. Rồi chính
Linh mục
chính xứ do thất nghiệp
nên đã bỏ nhà thờ đi chăn cừu cho một nhà giàu. Trước hoàn cảnh đó,
Đức
Giáo hoàng đã dấn thân khôi phục: kêu
gọi
dân làng làm vệ sinh môi trường cho khu nhà thờ bằng việc hốt rác, tiếp xúc với những trẻ
em bụi đời, và động viên nhiều người cùng nhau sửa lại cối xay gió
kéo nước ngầm cho dân làng.
Sau một
thời gian làm việc vất vả
với rất nhiều khó
khăn, cuối cùng cối xay gió đã được sửa chữa và bơm nước lại. Cho tới
lúc đó dân làng mới biết Ngài chính là Giáo hoàng bị mất tích và đã được đón về Tòa
Thánh.
Cuốn phim kết thúc với cảnh Đức Giáo hoàng chủ tọa một Thánh lễ có rất đông người tham dự, trong đó có dân chúng của cái làng nghèo khổ kia và cả vị Linh mục chính xứ đã
quay về
nhà thờ để ở với
đoàn chiên là giáo dân của mình.
Bài học đạo
diễn muốn nói qua cuốn phim là: Nếu Hội thánh chỉ sinh hoạt bằng lễ nghi tại
nhà thờ thì sẽ dần xa lìa quần chúng và quần chúng
cũng đần lìa
bỏ
Hội thánh. Nhưng nếu Hội thánh biết dấn thân yêu thương bằng sự phục
vụ các nhu cầu thiết thực
của họ, thì quần chúng cũng sẽ gắn bó với Hội thánh.
Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh làm người, trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", thì Hội thánh cũng phải « ở cùng các
tín hữu » và mỗi tín hữu chúng ta cũng phải biết quan tâm đến các
nhu cầu
của tha nhân và khiêm tốn dấn thân phục vụ họ.
3.
SUY NIỆM:
Chúa Nhật thứ Bốn
Mùa Vọng hôm nay trình bày cho chúng ta biết phải chuẩn
bị tâm hồn thế nào để đón Chúa đến qua tấm gương vâng phục và sống công chính của thánh
Giu-se? Mỗi
người chúng ta sẽ phải làm gì để sống chan hòa phục vụ tha nhân, nên giống Đấng Em-ma-nu-en, đã đến ở giữa chúng
ta để
nêu gương yêu thương
và phục
vụ chúng ta?
1)
GIU-SE, ĐẤNG CÔNG CHÍNH CỦA THIÊN CHÚA:
Công chính theo
nghĩa Thánh Kinh là luôn tuân giữ Lề Luật
của
Chúa và cư xử với tha
nhân trong tinh thần công bình và ngay chính:
+ Giu-se luôn cư xử
công bình: Ông không hề nghi ngờ Ma-ri-a đã phạm
tội ngoại tình, vì hoàn toàn tin tưởng vào sự trong sáng
của
Ma-ri-a, nên đã “không tố cáo
bà”.
+ Giu-se cũng là
một người ngay chính: Sự ngay chính
biểu lộ qua việc ông không làm lễ rước cô dâu Ma-ri-a về nhà, không dám
nhận thai nhi trong lòng Ma-ri-a là con đẻ của mình và ông dự định sẽ âm thầm rút lui
khi chưa hiểu biết thánh ý của Thiên Chúa.
2)
GIU-SE, ĐẦY TỚ TRUNG TÍN LUÔN XIN VÂNG Ý CHÚA:
+ Tin Mừng Mát-thêu
đề cập đến việc sứ thần
đến
truyền tin cho ông Giu-se trong
giấc mộng. Sứ thần đã đánh
tan sự bối rối của Giu-se khi nói cho ông biết
nguồn gốc thần linh của Thai Nhi trong lòng
Ma-ri-a.
+ Sứ thần còn lệnh
cho Giu-se làm ba việc để cộng tác vào
chương trình cứu độ: Một là
“đón Ma-ri-a về nhà” làm vợ để
Ma-ri-a khỏi bị tiếng oan. Hai là tôn trọng lời
khấn dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa
bằng việc “không ăn ở với bà”.
Ba là “đặt tên con trẻ là Giê-su” để
thừa
nhận trẻ Giê-su là con của mình, hầu tránh cho Đức
Giê-su khỏi
bị người đời khinh dể, như Tin Mừng
Lu-ca viết: “Khi Đức Giê-su
khởi
sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi.
Thiên hạ vẫn coi Người
là con ông Giu-se” (Lc 3,23).
+ Ngoài ra, Giu-se cũng nêu gương
tuân giữ Luật Chúa: Dâng con đầu lòng vào
Đền thờ sau khi trẻ Giê-su sinh ra được
bốn mươi ngày, rồi hai ông bà chuộc lại
bằng một cặp chim gáy hay bồ câu con. Rồi mỗi
năm, Giu-se đều đưa
Đức
Ma-ri-a và trẻ Giê-su hành hương về
Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua như Luật dạy
(x. Lc 2,41-52).
Thánh
Giu-se chính là mẫu gương đạo đức Mùa Vọng cho các
tín hữu
chúng ta. Mỗi người chúng ta hãy học với Thánh Giu-se luôn lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thi hành ý Chúa. Nếu chúng ta vâng phục và hoàn toàn tin thác trong tay Chúa quan phòng noi gương
thánh Giu-se, chúng ta cũng sẽ được nên công chính giống như ngài.
3) MỖI TÍN HỮU PHẢI TRỞ THÀNH « EM-MA-NU-EN » CHO THA NHÂN:
Thiên Chúa
vì yêu thương đã tạo dựng nên vũ trụ vạn vật “vì và
cho » loài người. Ngài
luôn quan phòng để mọi tạo vật được
tồn tại và tiến hóa theo thánh ý Ngài. Ngài còn hiện diện ở
với loài người qua Thánh Kinh, để dạy dỗ loài người nhận biết tin thờ và vâng theo thánh ý của Ngài. Nhất là Ngài
còn sai Con Một nhập thể làm
người,
trở thành Đấng Em-ma-nu-en,
nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, để ban ơn cứu
độ cho loài người chúng ta.
Trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, mỗi người chúng ta cần nhận ra Đức Giê-su là Đấng “Em-ma-nu-en”, đang ở với
chúng ta qua tha nhân, nhất là qua những người nghèo khó, đau khổ, tật bệnh và đang bị bỏ rơi… để mời
gọi chúng ta hãy khiêm tốn phục vụ
họ như phục vụ chính
Chúa Giê-su. Đây là điều kiện để chúng ta đón nhận được ơn
cứu độ do Đấng Thiên Sai mang đến cho chúng
ta.
4. THẢO
LUẬN: Trong những ngày Mùa Vọng này,
bạn quyết tâm làm gì để trở thành
một người công chính noi gương thánh
Giu-se ? Bạn sẽ ứng xử thế nào đối với những
người nghèo hèn là hiện thân của Đấng EM-MA-NU-EN ?
5. NGUYỆN
CẦU:
LẠY CHÚA
GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình để
lo công việc của Chúa noi gương Thánh Cả Giu-se trong
Tin Mừng hôm nay. Xin cho chúng
con sẵn sàng làm theo ý Chúa, sống
khiêm nhường và luôn tin cậy phó thác vào
Chúa Quan Phòng.
Noi gương Mẹ Ma-ri-a khi xưa
sau khi thụ thai Hài Nhi Giê-su
đã bị
người đời nghi kỵ hiểu lầm, nhưng
Mẹ vẫn một lòng cậy trông vào Chúa, cho chúng con trong những
giờ phút đen tối bị
người thân hiểu lầm, bị người chung quanh xa lánh, cũng biết tín thác vào Chúa quan phòng. Chúng
con tin chắc rằng Chúa
cũng sẽ kíp thời giải oan và sẽ “biến sự dữ ra sự
lành” như Mẹ khi xưa.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|