HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
LỄ ĐÊM GIÁNG
SINH ABC
Is 9,1-6; Tt 2,11-14;
Lc 2,1-14.
LOAN
BÁO TIN MỪNG CHO TOÀN DÂN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG:
Lc 2,1-14.
(1) Thời ấy,
hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền
kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (2)
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện
thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ
Xy-ri-a. (3) Ai nấy phải
về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi thế,
ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên
thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít,
vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua
Đa-vít. (5) Ông lên đó khai tên cùng với
người đã đính hôn với ông là
bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (6) Khi hai người
đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã tới
ngày mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà sinh con trai đầu
lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt
nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm
được chỗ trong nhà trọ. (8) Trong vùng
ấy, có những người chăn chiên sống
ngoài đồng và thức đêm canh giữ
đàn vật. (9) Và kìa sứ thần Chúa
đứng bên họ, và vinh quang của Chúa
chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi
hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh
em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một
tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng
cho toàn dân: (11) “Hôm nay, một Đấng Cứu
Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít.
Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.
(12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người:
Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc
tã, nằm trong máng cỏ. (13) Bỗng có
muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần
cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
(14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới
thế cho loài người Chúa thương”.
2. Ý
CHÍNH:
Bài tin mừng
hôm nay nhằm trình bày việc Chúa Giê-su giáng
sinh là một tin vui cho nhân loại. Ta có thể chia
làm 2 phần chính như sau:
- Phần thứ
nhất (1-7): Cuộc kê khai nhân khẩu là nguyên nhân khiến
hai ông bà Giu-se Ma-ri-a phải lên đường trở
về Giê-ru-sa-lem là quê hương của vua Đa-vít.
Tại đây bà Ma-ri-a tới ngày sinh. Bà
đã phải sinh con trong cảnh nghèo khó tột
cùng vì hai ông bà quá nghèo không tìm
được chỗ nơi nhà trọ.
- Phần thứ
hai (c. 8-14): Một sứ thần của Chúa đã
hiện đến báo tin vui cho các mục đồng
ở ngoại ô Bê-lem. Sứ thần cũng cho biết
dấu chỉ để họ nhận ra Đấng Thiên
Sai là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm
trong máng cỏ”. Rồi có rất nhiều thiên thần
đến hợp lời ngợi khen Thiên Chúa.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 1
: + Hoàng đế Au-gút-tô: Hoàng đế Rôma
cai trị
từ năm 29 trước Công nguyên (CN), đến năm 14 sau CN).
- C 2 : +
“thành vua Đa-vít”: Khi gán tước
hiệu “thành Vua Đa-vít” cho Bêlem (x. Mt 2,6), Tin Mừng
dựa vào lời sấm của ngôn sứ Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế (x. Mk 5,1).
- C 5 : + “Người
đã đính hôn với ông Giu-se là bà
Ma-ri-a đang có thai”: Câu này nhắc lại việc
sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho
Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Lc 1,27).
- C 7 : + Bà sinh
con trai đầu lòng: Sinh “Con đầu lòng”
chỉ có nghĩa là sinh “đứa con đầu
tiên hay con thứ nhất”, không nhất thiết sẽ
phải sinh thêm con kế tiếp. Sở dĩ Luca
đề cập đến “con trai đầu lòng” ở
đây là muốn nhắc đến điều luật Môsê qui định phải dâng “các con đầu lòng cho
Chúa”(x. Xh 13,2), và cách cha mẹ phải làm
để chuộc lại con, sắp được
hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện cho Hài Nhi
Giê-su (x. Lc 2,23). + Không tìm được chỗ
trong nhà trọ: Các chủ quán từ
chối không cho ở trọ phần vì dáng vẻ
quê mùa nghèo khó của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a,
phần vì họ sợ đón phụ nữ
mang bầu vào nhà sẽ mang lại xui xẻo cho việc
kinh doanh của họ!
- C 11 : + Đấng
Ki-tô Đức Chúa: Đức Giê-su là Đấng Mêsia. Quyền Chúa
Tể và Vương Đế của Người
được chính Thiên Chúa trao ban (x. Cv 2,36).
- C 14 : + Bình an
dưới thế”: Lời của các sứ
thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy
sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là
làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một
nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,5-6 ; Mk
5,4).\
4. HỎI ĐÁP:
HỎI:
Phải chăng bà Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước
khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi
sau khi đã sinh “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,6) thì
sống đời vợ chồng bình thường
với ông Giu-se, và từ đó đã
sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56)?
ĐÁP:
Thực ra không phải như vậy. Vấn đề ở
đây là ý nghĩa thực sự của
từ “cho đến khi” và
“anh em và chị em của Đức Giê-su”
như thế nào? :
+
“Cho đến khi”: Câu Mt 1,24-25 nên được diễn
giải như sau: Khi tỉnh giấc, ông Giu-se đã
thi hành 3 lệnh truyền của sứ thần
trong giấc mộng: Một là ông “tổ chức
lễ cưới chính thức để rước
cô dâu Ma-ri-a” về nhà mình; Hai là ông “không ăn ở
với Ma-ri-a như vợ chồng” vì Ma-ri-a
đã được thánh hiến dâng mình phục vụ Thiên Chúa như một nữ tu khấn
trọn; Ba là “cho đến khi” Ma-ri-a sinh con thì ông
“đặt tên cho con trẻ là Giê-su” như lời sứ thần
truyền để nhìn nhận
trẻ Giê-su là con chính thức của mình về luật pháp (x. Lc 3,23). Tin Mừng không viết: hai ông bà
đã không ăn ở cho đến khi Ma-ri-a sinh
con thì lại ăn ở với nhau, như có
người lầm tưởng!
+“anh
em và chị em của Chúa Giê-su”: Trong Tin Mừng
Mát-thêu, các từ “anh em ông”, “chị em ông” (x. Mt
13,55-56) hay “mẹ và anh em của Người” (x. Mt
12,46-47) chỉ là các anh chị em bà con mà
thôi. Vì Chúa Giê-su là “con trai đầu lòng”,
là người con thứ nhất, nên nếu
Đức Ma-ri-a có thêm các người con
khác thì họ phải được gọi là
“các em trai” và “các em gái” thay vì được
gọi chung chung là “anh em” và “chị em” như ở
đây. Hơn nữa, bằng chứng quan trọng
nhất cho thấy Đức Ma-ri-a chỉ có một
con trai duy nhất là: Chúa Giê-su đã trối Mẹ
Người làm mẹ của môn đệ Gio-anvà “Kể từ giờ đó,
người môn đệ đã rước bà
về nhà mình” (Ga 19,26-27). Chắc Đức Giê-su sẽ không trối Mẹ Ma-ri-a cho môn đệ Gio-anrước về nhà mà phụng dưỡng sau khi Người chết
nếu Mẹ Ma-ri-a còn
có nhiều người
con khác ngoài Người.
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI
CHÚA: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng
trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn
dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã
sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít. Người
là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) CHÚA
CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA:
Ở nước
Nga thời trung cổ, có một hoàng tử
tên là A-lếch-xích (Alexis) rất yêu quí những
người nghèo khổ bệnh tật. Mỗi ngày
chàng ta bỏ nhiều thời giờ đến
nhà thăm họ và sẵn sàng giúp
đỡ những ai cần được trợ
giúp. Có điều là hoàng tử thấy
dân chúng vẫn dửng dưng thờ ơ khi
chàng đến với họ. Rồi hoàng tử
để tâm tìm hiểu lý do thì được
biết sở dĩ dân chúng không mấy phấn khởi
khi gặp gỡ chàng vì chàng không đáp
ứng được các nhu cầu thực
tế của họ. Từ đó hoàng tử
A-lếch-xích âm thầm học hỏi chuẩn bị
giúp dân một cách thiết thực
hơn.
Sau một thời
gian, một hôm dân chúng lại thấy một người
ăn mặc đơn sơ đến thăm họ.
Anh ta thuê một túp lều trong hẻm sâu làm nơi
trú ngụ. Hàng ngày anh đến từng
nhà và khám bệnh bốc thuốc miễn phí
chữa bệnh cho các người nghèo.
Chẳng bao lâu sau, anh ta gây được thiện
cảm của mọi người chung quanh. Uy tín
anh ngày một gia tăng khiến nhiều người
nghe tiếng tìm đến nhờ anh giúp đỡ giải quyết những khó khăn họ đang gặp
phải. Hôm nay anh dàn xếp được một cuộc tranh chấp đất đai giữa hai gia đình.
Hôm sau, anh lại làm cho một đôi vợ chồng
sắp ly hôn làm hòa với nhau và yêu thương nhau như trước.
Anh động viên mọi người tương trợ
lẫn nhau và nhờ đó ai cũng mến
anh vì anh đã hy sinh giúp đỡ cho họ.
Thật ra ông thầy
lang ấy chính là hoàng tử A-lếch-xít.
Hoàng tử đã rời bỏ cung điện
phú quí, đến sống giữa đám
dân nghèo đói dốt nát, và sống hòa
mình với họ. Về nhau khi biết thầy lang chính là hòang tử A-lếch-xít thì dân chúng càng quý trọng hòang tử hơn rất nhiều.
Hoàng tử
A-lếch-xít trong câu chuyện trên là hình ảnh
của Đức Giê-su Đấng Cứu Thế.
Người đã giáng sinh trong cảnh nghèo
hèn để chia sẻ cảnh nghèo khó với
lòai người chúng ta. Người đã yêu thương chúng
ta và tình nguyện xuống trần gian để ban cho chúng ta sự
sống đời đời.
2) NGƯỜI
VỐN DĨ VÔ TỘI NHƯNG ĐÃ TRỞ THÀNH
TỘI NHÂN VÌ CHÚNG TA:
Một vị quan
lớn gửi thiệp mời các người
thân quen đến dự tiệc mừng sinh nhật
thất tuần của ông. Tất cả quan khách
đến dự buổi liên hoan đều ăn
mặc sang trọng và có xe hơi đưa
đón. Một vị quan cao tuổi là bạn chí
thân của chủ tiệc cũng đến dự. Do già yếu nên khi bước xuống xe, ông bị trượt chân té xuống một vũng
nước dơ khiến
các gia nhân gần đó cười ồ lên. Trước
tình trạng quần áo bị hoen ố nước
dơ, vị quan cảm thấy xấu hổ trước trăm con mắt
nhạo cười và quyết định lên xe ra về. Các gia nhân hiện diện
đã năn hỉ hết cách
mà vị quan kia nhất định
không vào nhà dự tiệc. Bấy giờ chủ nhà
được gia nhân cấp báo
liền vội vàng chạy tới. Khi ngang qua vũng nước,
ông lại cố tình té ngã vào vũng nước
và quần áo ông cũng vấy bẩn không khác
vị quan khách kia bao nhiêu. Lần này bọn gia nhân
không ai dám cười nữa. Sau đó chủ
nhà đã nắm tay vị khách quý kia mời
vào phòng dự tiệc, và ông này không còn
viện
lý do gì để từ chối nữa.
Việc làm của
chủ nhà trong câu chuyện trên là một hành
động tế nhị và đầy tình người, khiến chúng ta hiểu được phần nào lý do tại sao Đức
Giê-su vốn là Con Thiên Chúa mà lại hạ
mình xuống làm một người phàm. Người muốn trở nên giống như chúng ta để
ban ơn cứu độ cho chúng ta.
3) CHÚA
ĐẾN BAN HÒA BÌNH CHO
NHÂN LOẠI:
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và
Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại
các hào của quân Anh, những lá
thư và tấm thiệp được gửi đến từ
gia đình, và anh em binh lính khá
vui vẻ.
Đến nửa đêm, một số người
trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách
đầy
phấn khích : “Anh em hãy lắng nghe đi
!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những
quân lính Đức cũng đang ca
hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người,
đến gặp nhau tại bãi
đất
trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm
quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến
đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên
ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi
cười, các binh lính đi
dạo
chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương
thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa,
khi tình thân thiện đang gia
tăng, thì lại có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu
này không kéo dài lâu. Tin này đã
lan tới
tai các vị tướng đôi bên, và họ đã ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm
dứt ngay mọi chuyện. Các
sĩ quan dồn binh lính trở lại vào chiến hào. Tất cả mọi
chuyện đều kết thúc.
Sau lễ
Giáng Sinh, cuộc giao chiến lại
bắt đầu trở lại.
Khi Đức Giê-su sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu
thương nhất ở Tin Mừng. Bạn sẽ làm gì để đem sự bình an cho gia đình và nơi bạn đang sống?
4) THĂM HANG ĐÁ:
Vào một dịp lễ
Giáng
Sinh, người ta thấy có một đoàn người đến viếng thăm Hang đá trong nhà thờ Đức bà Paris. Đây là một ngôi Nhà thờ cổ kính và rất nổi
tiếng tọa lạc ngay giữa thủ đô. Hoà trong
đoàn người kính viếng hang đá năm ấy, người ta thấy có nhiều người khôn ngoan tài giỏi cũng cùng đi viếng
hang đá.
Đầu tiên là một hoạ sĩ chuyên về mầu sắc: Đứng trước
máng
cỏ của Chúa Giê-su, ông nhìn ngắm và lắc
đầu tỏ ý như những màu sắc trang hoàng trong hang đá không mấy hài hòa theo con mắt thẩm mỹ của ông. Một vài phứt sau, ông đi ra
chỗ khác. Tiếp đến là một kiến
trúc sư chuyên việc xây dựng. Người
ta thấy ông cũng nhìn ngắm rồi ông cũng lại lắc
đầu bỏ đi, có lẽ cách kết cấu hang đá đã không
theo đúng kỹ thuật khoa kiến
trúc.
Sau đó ông cũng lặng lẽ
đi ra.
Tiếp theo đó là nhà điêu
khắc chuyên tạc
đắp tượng. Tượng Chúa Giêsu,
Đức Mẹ và thánh Giuse
trong hang cũng là do những người
làm
nghề điêu khắc làm. Nhà điêu khắc này đứng ngắm hang đá lâu hơn
hai người trước. Hình như
ông thấy các bức tượng nơi hang đá có vấn đề. Sao nó không
đúng với thực tế mấy:
Chúa
thì to mà con bò con chiên thì lại quá nhỏ, thiếu sự cân đối hài hòa. Rồi người ta cũng lại thấy ông lắc đầu bỏ ra chỗ khác.
Sau cùng người ta
thấy một bà cụ già dắt theo một em bé gái khoảng 5 tuổi. Em bé mặc bộ đầm trắng toát như tuyết. Vai em còn mang thêm một chiếc khăn quàng cũng màu trắng. Hai bà cháu đứng ngắm
nhìn
hang đá một hồi lâu. Bỗng người ta thấy em bé mon men tìm
đường leo lên hang
đá, đến tận chỗ người
ta đặt tượng Chúa Giê-su Hài đồng.
Em bé ngắm nhìn Chúa Giê-su
và xúc động. Em nghĩ: giữa cảnh
đêm đông giá lạnh như
thế này mà Hài nhi Giê-su lại không có được một chiếc mền để
đắp cho ấm... Rồi em cởi chiếc áo len trắng em đang mặc đắp lên máng cỏ che ấm cho Chúa Hài đồng.
Sau đó hai bà cháu cùng nhau ra về, nhưng họ thấy tràn ngập niềm vui trong tâm hồn vì được gặp gỡ Chúa và đã được Chúa yêu thương.
Trong những ngày này, ước chi mỗi chúng ta cũng có được niềm vui hạnh phúc, nhờ biết cảm thông và sẵn sàng chia sẻ cơm áo cụ thể
cho những người nghèo đói noi gương em bé
trong câu chuyện trên.
3. SUY
NIỆM:
1)
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG:
Vào dịp lễ
Giáng Sinh, chúng ta lại được nghe những
bài hát du dương thánh thót có khả
năng đánh động lòng người, nhất
là bài SAI-LÂN NAI, HÔ-LI NAI (Silent Night, Holy Night), lời
Việt là “Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng
bừng”. Quả thực, đêm Giáng Sinh thật
là một Đêm thiêng liêng, vì là giờ phút
thiêng liêng, đất trời hòa hợp nhờ
việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người.
Mùa Vọng là thời gian trông mong Đấng Cứu
Thế mau đến. Hôm nay, Thiên Chúa đã đáp
lại sự mong mỏi của lòai
người
bằng việc sai Con Một
Ngài xuống thế làm người, đầu thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, trở thành một người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ không có tội.
Làm sao hiểu
được chuyện đó ? Làm sao Thiên Chúa
lại trở thành một phàm nhân yếu
đuối nghèo nàn ? Làm sao Đấng Vô Cùng
lại có thể trở thành một con người
hữu hạn ? Làm sao Đấng siêu thời
gian lại đi vào trong thời gian và chịu
sự chi phối của thời gian ? Làm sao
Đấng Tạo Hóa hằng sống
lại phải trở thành một loài thụ
tạo hay chết ? Tóm lại: Tại sao Thiên Chúa
lại giáng sinh làm người ? Chúng ta chỉ
có thể trả lời rằng: Tất cả
là do TÌNH THƯƠNG.
Vì yêu thương
loài người chúng ta và vì muốn cứu
độ chúng ta, Con Thiên Chúa đã xuống
thế để ở cùng chúng ta, để
dạy loài người chúng ta nhận biết
Đấng tạo dựng nên mình và mở
ra cho loài người một con đường
sống, để về trời hưởng hạnh
phúc với Chúa Cha. Chúa Giê-su đã thể
hiện tình thương của Thiên Chúa bằng
việc thiết lập một Nước Trời
là Hội Thánh, và đã chịu chết
trên cây thập giá để đền tội thay cho
loài người, rồi sống
lại để trả lại sự sống cho loài
người. Tóm lại đêm nay kỷ niệm
“Con Thiên Chúa giáng trần làm con loài người,
để con loài người được nên Con Thiên Chúa”.
Như thế, lễ
Giáng Sinh là lễ của tình thương. Tin mừng
trong ngày lễ Giáng Sinh hôm nay công bố sứ
điệp: Thiên Chúa yêu thương loài người
nên đã sai Con Một xuống thế để công bố
cho loài người biết tình thương bao
la của Thiên Chúa. Người muốn chúng ta
đáp lại tình thương của Ngài
bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương
nhau.
2) NGHÈO
KHÓ CHÍNH LÀ DẤU CHỈ CỦA ĐẤNG CỨU
THẾ:
Chúa Giáng
Sinh là một Tin mừng cho mọi người
thiện tâm trên trần gian. Các mục đồng sau
khi được thiên thần báo tin đã lập
tức lên đường tìm kiếm Hài
Nhi và cuối cùng đã gặp được
Người. Rồi họ lại đi loan Tin mừng
cho kẻ khác. Đấng Cứu Thế đã
chọn mang thân phận nghèo hèn đến với
nhân loại, để chia sớt nỗi khổ đau
với những người nghèo. Dấu
chỉ giúp các mục đồng nhận ra Người
: “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng
cỏ”. Trước dấu chỉ nghèo khó này,
các chủ quán ở Bê-lem đã xua đuổi
hai ông bà Giu-se Ma-ri-a khỏi nhà trọ, đang khi
các mục đồng nghèo khó lại vui mừng
đón nghe Tin mừng về sự giáng
sinh của
Người.
Ngày nay Chúa
Giê-su vẫn tiếp tục đến với chúng
ta qua những dấu chỉ khiêm tốn và nghèo
hèn. Người trở thành một tấm
bánh với vẻ bề ngoài tầm thường,
Người hiện thân trong những kẻ tàn
tật què quặt đui mù, Người
đến trong những người nghèo khó
bị người đời hắt hủi bỏ
rơi. Đây là lúc chúng ta phải xác
định lập trường, để biết mình
thuộc hàng người nào:
- Là chủ
quán giàu có khi thiếu lòng từ tâm xua
đuổi người nghèo ?
- Hay là các
mục đồng tuy nghèo khó, nhưng sẵn
sàng đón nhận Tin mừng Chúa Giáng
Sinh và quyết tâm đi tìm kiếm Chúa
để đón nhận niềm vui
ơn cứu độ ?
4. THẢO
LUẬN:
1) Giáng Sinh là
lễ của tình thương. Vậy bạn đã
làm gì để đáp lại tình thương
của Thiên Chúa trong những ngày qua ? 2) Tặng
quà là một hình thức biểu lộ tình
thương cụ thể, vậy trong mùa Giáng Sinh này bạn
sẽ tặng gì cho những người
thân trong gia đình, những bè bạn, những
người làm ơn cho bạn suốt trong năm
qua, và hết những ai nghèo khổ cô đơn, những bệnh
nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa
trị… là hiện thân
của
Chúa Giê-su ?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA
GIÊ-SU, Hôm nay bắt đầu một mùa Giáng Sinh nữa. Trần gian rực sáng, cờ
xí giăng đầy, người người
nô nức mừng Chúa giáng sinh trong những
bữa tiệc vui vẻ sang trọng, rượu
thịt ê hề. Nhưng những người lữ
hành năm xưa vẫn còn đang lỡ bước
và đang tiếp tục bị xua đuổi ra đầu
đường xó chợ trong đêm nay, vì
các chủ quán ngày này năm xưa vẫn còn
đó: Những ai đi xe hơi và ăn mặc
bảnh bao sẽ được chủ quán ân cần
đón tiếp vào nhà, còn những người nghèo khó cũng lại bị đuổi
ra hầm
cầu qua đêm ! Xin cho chúng
con biết luôn nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong
những người nghèo khó, những
cụ già neo đơn không ai chăm sóc, những
trẻ em mồ côi bụi đời… để chúng con ân cần thăm hỏi và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ
như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó
chúng con sẽ trở nên những môn đệ đích thực của
Chúa.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG
CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|