NGUYÊN NHÂN BẤT CÔNG
Tín Nghĩa Với Ân Tình Nay Hội Ngộ
Hoà Bình Và
Công Lý Đã Giao Duyên
Tv 85:11 đã xác định như vậy. Hòa
bình không chỉ là không
có bom đạn và máu
lửa, mà là không có thù
hận, hiềm khích,
áp bức, bóc lột, cướp phá,...
Muốn có hòa bình thì
công lý phải được
tôn trọng đúng
mức.
Rất có thể có người ngạc nhiên về lời xác định của Thánh GH Phaolô VI: “Chính
trị là một trong các hình thức bác ái cao cấp nhất.” Chính trị không là gì xa lạ mà là những gì rất đời thường liên
quan công lý.
Vì kiêu ngạo mà sinh ra tội lỗi, vì tội lỗi mà hành xử bất công, vì có bất công nên cần có công lý, ở mọi cấp độ –
từ gia đình tới xã hội. Vì thiếu công lý mà người ta nổi loạn, đấu
tranh, để đòi lại công lý – cho chính mình và cho người khác. Chính Chúa Giêsu đến thế gian để
đòi lại công
lý cho chúng ta.
Công lý là gì? Đó là công
bằng xã hội, là nghĩa vụ đầu tiên của xã hội, đặc biệt là
Thánh Luật của Chúa.
Bất công xã hội là phi công lý. Theo La ngữ, chữ “Justitia” nghĩa là
Nữ Thần Công Lý
(Lady Justice), một nhân
vật nữ được
cách điệu hóa
để trở thành
biểu tượng của
công lý, pháp luật,
được khắc họa và được miêu tả với ba biểu tượng
đặc trưng: [1] một tay cầm thanh gươm (biểu
tượng về quyền lực cưỡng chế, quyền
uy của toà án; [2] một
tay cầm chiếc cân để phân định
cái thiện và cái
ác (biểu tượng cho
lẽ phải, sự công bằng, chính trực,
nghiêm minh, không thiên vị);
[3] mắt bịt chiếc khăn (tượng trưng cho ý
tưởng công lý,
đối lập với áp
lực và sự ảnh hưởng từ bên
ngoài).
Thần Công Lý là một trong các biểu tượng tiêu biểu, nhưng Thần Công
Lý đến từ đâu
và ủng hộ cái gì?
Chắc chắn vị thần
này bảo vệ công
lý và chân lý. Chúa Giêsu đã xác định: “SỰ THẬT sẽ giải phóng
quý vị.” (Ga 8:32)
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã
ban luật về công
lý: “Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng
làm chứng gian mà
tiếp tay với kẻ
xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi
không được
ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. Ngươi không
được thiên
vị người yếu
thế khi họ có việc kiện tụng.” (Xh 23:1-3) Ngài luôn thẳng thắn, nói tận nơi, không vòng vo, vì sợ nên người ta tìm cách né tránh, thích đường vòng, để thừa nước đục
thả câu rồi tìm
cách “chơi bài chuồn” luôn.
Con chó sủa to là con
chó nhát, và người ta cũng
thế.
Kinh Thánh luôn đề cập rõ ràng vấn đề công lý, cả Cựu Ước và
Tân Ước. Tuy nhiên,
nhân danh lòng thương xót, công lý cũng phải được thể hiện
đối với kẻ thù: “Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù
đi lạc, ngươi
phải dẫn nó về cho người ấy. Nếu thấy lừa của
kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở
nặng, ngươi không được để mặc người ấy;
ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.” (Xh 23:4-5) Công lý rất cần thiết và rất quan trọng, phải
được tôn trọng
tuyệt đối và phải được thể hiện với mọi người,
không trừ ai. Thật
vậy, Eleanor Roosevelt xác định: “Công lý không phải chỉ dành cho một phía, nó phải dành cho cả hai phía.” Đó là
lý lẽ chung, không dành
riêng cho ai, và cũng không ngăn cấm ai.
Người ta lạm dụng và áp dụng sai trái nên cố ý làm lệch cán cân công lý. Nhưng từ xưa, sách Đệ Nhị Luật đã
nói rõ: “Anh em KHÔNG ĐƯỢC làm sai lệch công lý, KHÔNG ĐƯỢC thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hoá
ra đui mù và làm hỏng
việc của những người công chính.”
(Đnl 16:19) Ngày nay người
ta còn nói tới “chỉ
số công lý”, tức
là đề cao sự
công tâm và tính hợp lý.
Horace Walpole định nghĩa:
“Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật
cho chúng ta biết
điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành
động của dối
trá.” Một cách
nhận định và
lý luận tuyệt vời!
Thế gian bất an vì thiếu công lý, loài người có nhiều kiểu bất công, vì vậy mà người ta luôn khao khát bình an. Do
đó nhân loại không
ngừng mong chờ Đấng
Thiên Sai – Đức Giêsu
Kitô – xuất hiện để
đòi lại công
lý cho những chính
nhân, bởi vì họ bị áp bức, bị đối xử tệ
quá nhiều. Không
thể tách rời công lý và hòa bình, có
cái này thì ắt có cái
kia, không có cái kia thì cũng chẳng có cái này. Điều đó như một hệ lụy tất yếu vậy.
Thuở xưa, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Từ gốc tổ
Gie-sê sẽ
đâm ra một
nhánh nhỏ, từ
cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí
Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.”
(Is 11:1-2) Thánh Phaolô cho biết:
“Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa.”
(Rm 8:14) Ai không yêu công lý là người không chuộng
chân lý, ai bóp méo sự
thật là người
không thích hòa bình, ai cố
ý né tránh sự thật
là kẻ hèn nhát –
đối với cả Chúa
và tha nhân. Đó là một hệ
lụy vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, không thể biện hộ bằng bất kỳ lý do nào
hoặc bất cứ kiểu
lý luận nào.
Thiên Chúa là Đấng công
chính, (Tv 11:7) là Đấng
không ưa thích bạo
tàn. (Tv 11:5)
Từ cổ chí kim, thời nào cũng vậy, xã hội luôn có bất công, đủ kiểu và đủ mức, nên luôn cần công lý của Thiên Chúa, vì chính Ngài là công
lý: “Lòng kính sợ
Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không
phán quyết theo lời
kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người
nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ
gian tà.” (Is 11:3-4) Còn có bất công vì con người bất chính, thế nên cứ lẩn
quẩn trong cái “tam giác” Tham-Sân-Si của kiếp phàm nhân.
Thật thú vị với cách giải thích của ngôn sứ Isaia: “Đai thắt ngang lưng
là đức
công chính, giải
buộc bên sườn là đức tín thành. Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi
chung với nhau, một
cậu bé sẽ
chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử
cũng ăn rơm như bò.” (Is 11:5-7) Có công lý thì
có hòa bình, đó là thời
đại mà Đức
Kitô xuất hiện.
Ngài chưa xuất hiện
nên loài người ngày
đêm mong đợi Ngài
đến giải thoát,
cứu độ.
Trong thời đại đó, mọi thứ trở nên dễ dàng, tuyệt vời, ngỡ là điều không tưởng, nhưng lại là
sự thật minh nhiên:
“Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc
tay vào ổ rắn
hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức
Chúa sẽ tràn
ngập đất này,
cũng như nước
lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các
dân tộc sẽ tìm
kiếm Người,
và nơi Người
ngự sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11:8-10) Nhân loại biết mình không làm được gì nên hằng khao khát Đức Kitô như đất hạn chờ mưa. Trong xã
hội loài người, có những người lấy danh nghĩa
là công lý nhưng thực
ra lại chỉ mạo danh để trục lợi cho mình
mà làm khổ người khác.
Công lý của họ là
“đầu môi, chót lưỡi,” hành động của họ lại trái
ngược. Tất nhiên
điều đó không
hợp với Thiên
Chúa.
Như một lời cảnh báo với câu nói của người Pháp: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người
khác.” Câu nói giản
dị mà thâm thúy, đơn giản mà sâu sắc.
Rất hay và chí lý biết
bao!
Thánh Vịnh gia đã sử dụng lời của vua Salômôn:
“Tâu Thượng
Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý
Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ
nghèo hèn.” (Tv 72:1-2) Quả thật, công lý luôn “gắn liền” với đám dân đen, những người vừa nghèo
vừa hèn, vừa thấp cổ vừa bé
miệng, vừa khốn khổ
vừa bị nhục, không có ăn mà còn bị bóc lột tận xương tủy. Khốn
thay những kẻ lạm dụng quyền bính mà hành
hạ người khác,
trong khi đáng lẽ phải
dùng quyền mà phục vụ. Thế nhưng họ
lại làm sai ý muốn
của Thiên Chúa.
Thật tồi tệ đối với
những người có quyền hành và chức
tước chỉ lo vinh thân phì da chứ chẳng làm lợi gì cho dân, thế mà vẫn “mồm loa mép dải”, thế nên mới có vụ “cóc
kiện trời”. Xã hội ngày nay cũng vẫn có những người “liều mình”
như Cóc ngày xưa, nghèo và khổ nhưng vẫn kiên trì đòi cho được công lý. Tuy nhiên,, ai cũng
biết rằng “quan nhất
thời, dân vạn
đại,” đáng lẽ
biết vậy để sống sao cho dân thương,
đàng này họ lại hiểu
theo ý riêng họ, thế
nên họ “tận dụng”
thời gian làm quan mà “vơ vét” lợi lộc để hưởng
riêng. Thật hèn
nhát với lũ “đỉa
người” như vậy! Người ta không thể không mơ ước thời vua Nghiêu, vua
Thuấn. (Ba ông vua Thuấn, Nghiêu và Vũ được Khổng giáo coi là
các vua kiểu mẫu, nêu
gương đạo
đức, thời Tam Hoàng Ngũ Đế, năm 2852-2205 trước công
nguyên, nhân dân an cư lạc
nghiệp.)
Xã hội nhân loại quá lộn xộn, Thiên Chúa biết rõ đám người “bụng to” (cả đời
và đạo) làm
ăn ra sao nên Ngài mới
sai Con Một Ngài tới
trần gian. Con Một Thiên Chúa chính là Đức Kitô, là Hoàng Tử Bình An, là Vua Công Lý. Khi Con
Ngài tới cai trị thì
đám dân đen mới có
thể ngóc đầu lên được. Thánh Vịnh gia cho biết: “Triều
đại Người đua nở hoa công lý và
thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế
nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng
cõi đất.” (Tv 72:7-8) Thật tuyệt vời!
Và vì thế mà
nhân loại luôn khao
khát Đấng Công
Bình – Đấng Thiên
Sai của Thiên Chúa.
Thật vậy, công lý của Thiên Chúa luôn được thực hiện đúng
mức: “Người giải
thoát bần
dân kêu khổ và
kẻ khốn cùng
không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ, giải
thoát cho khỏi áp
bức bạo tàn.”
(Tv 72:12-14) Đức Kitô
chính là Vua Hòa Bình, vì thế
danh Ngài sẽ lưu
trong sử sách và trong trí nhớ của mọi người ở mọi thời: “Danh
thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì
mọi sắc tộc
trần gian, nhờ Người được chúc
lành, và muôn dân thiên hạ
ngợi khen Người có phúc.” (Tv 72:17) Đó là
điều tất yếu
– ắt
có và đủ.
Như một cách giải thích, Thánh Phaolô nói: “Mọi lời xưa đã
chép trong Kinh Thánh đều
được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng
ta nên kiên nhẫn, và
an ủi chúng ta,
để nhờ
đó chúng ta vững
lòng trông cậy.” (Rm 15:4) Và thánh nhân chân thành
cầu chúc: “Xin Thiên
Chúa là nguồn kiên
nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô
Giêsu đòi hỏi. Nhờ
đó, anh em sẽ
có thể hiệp
ý đồng
thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta. Vậy, anh em hãy
đón nhận nhau, như
Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” (Rm
15:5-7) Lời cầu chúc
này đồng nghĩa với
lời khuyên nhủ, mệnh
lệnh hoặc cảnh báo. Và đó cũng là “phong
cách sống” mà ai cũng
phải thực hiện, nhất
là trong Mùa Vọng –
thời gian tín nhân
chúng ta chờ đợi
Đấng Cứu Thế đến thực hiện công
lý cho mỗi tội nhân
chúng ta.
Thánh Phaolô quả quyết: “Đức
Kitô có đến
phục vụ những người được cắt
bì, để thực
hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung
thành của Thiên
Chúa. Còn các dân ngoại
có được
tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có
lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng
điệu hát
cung đàn ca mừng
danh thánh Chúa.” (Rm 15:8-9) Thánh nhân cũng nói đến lòng thương xót
của Chúa, vì lòng thương
xót này đã có từ ngàn
xưa, trải qua đời
nọ đến đời kia, chứ chẳng riêng
gì là lòng sùng kính Thánh Tâm hoặc
lòng sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi lòng sùng kính nhưng vẫn chỉ là một, phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa. Sống tinh thần Mùa Vọng cũng là sống lòng thương xót
của Chúa, và Lòng Chúa
Thương Xót cũng chính là công lý.
Chắc chắn ai cũng phải sống
lòng thương xót, và mọi người đều phải thể hiện công
lý. Tuy nhiên, những người
mệnh danh là những
người truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của cộng đoàn Lòng Chúa Thương
Xót, là hội viên của hội này hay
đoàn nọ thì phải chứng tỏ rõ
nét hơn. Nếu vẫn cứ
kèn cựa và phe
cánh thì đó là trái ngược
với Thiên Chúa – ngôn hành không song song. Như thế thì thật nguy hiểm, nghĩa là
đi ngược với
tinh thần Mùa Vọng:
Chưa thực sự sám hối, chưa sửa đường-lòng-mình cho thẳng, mà cái gì chưa “thẳng” thì không thể là công lý, tức là giả hình, loại người mà Chúa Giêsu
đã nhiều lần nguyền
rủa là “nòi rắn
độc” hoặc “mồ mả tô vôi” mà thôi.
Theo lời kể của Thánh sử Mát-thêu, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng
trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang
địa: Hãy dọn sẵn con đường
cho Đức Chúa, sửa
lối cho thẳng để Người đi. Ông chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa” nên chẳng ai thèm nghe, có nghe thì “tai
này qua tai kia” mà thôi. Ông cũng bị người ta ghét vì ông là người dám nói thẳng nói thật, nói “chạm tự ái” bất kỳ ai, đồng thời
luôn thể hiện công
lý, vì ông yêu chuộng hòa
bình và chân lý của Đức
Giêsu Kitô.
Là người sống nội tâm
và rất giản dị, dạng
rất “bụi đời”, ông Gioan thể hiện ra cả bề ngoài:
mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Thế thì
đúng là “dân bụi đời”
thứ thiệt. Như vậy mới là “ngon” vì dám sống “khác người.” Ở đời dễ
có mấy ai, thế nhưng
loại “hàng hiếm”
mới quý giá.
Nhưng rất lạ, bởi vì vẫn có người thích tìm hiểu “sự lạ” về Ông-Bụi-Đời ấy. Chứng
cớ là người
ta từ Giêrusalem và khắp
miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Có thể mới đầu họ chưa
thực tâm mà chỉ vì
tò mò và hiếu kỳ, nhưng
rồi sẽ khác, mưa dầm thấm sâu.
Đúng là lạ thật, người ta
quyết tâm thú tội
và xin ông làm phép rửa
cho họ trong sông Gio-đan. Lạ hơn nữa là còn có nhiều người thuộc phái
Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc
đến chịu phép rửa. Thấy vậy, ông biết lòng họ thế nào nên nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã
chỉ cho các anh
cách trốn cơn thịnh
nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống
vậy?” (Mt 3:7) Chúa
Giêsu luôn thẳng thắn,
nhiều lần dùng cụm
từ “nòi rắn
độc” để nguyền rủa những kẻ ưa
thói giả hình,
thính khoe hình thức.
Và rồi Ông-Bụi-Đời nói một lèo với đám người giả hình: “Các anh hãy
sinh hoa quả để
chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham’. Vì,
tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị
chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng
các anh sám hối. Còn
Đấng đến
sau tôi thì quyền
thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm
phép rửa cho các
anh trong Thánh Thần và
lửa. Tay Người
cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3:8-12) Nghe mà thấy “đầy lỗ tai” quá!
Chắc hẳn những ai thành tâm
thiện chí thì sẽ cảm thấy “rát
tai” với những lời
thẳng thắn của Ông-Bụi-Đời. Nếu nghe và thấy “giật mình” thì thật là phúc, bởi vì có cảm thấy như vậy mới
chân thành sám hối và
cố gắng chấn chỉnh
lối sống.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin
giúp chúng con luôn biết
sống tích cực
khi trông mong Đấng
Thiên Sai – đặc
biệt là sẵn
sàng chờ đợi
Con Chúa đến
thế gian lần thứ hai, xin soi sáng để chúng con biết yêu mến chân lý, quyết tâm bảo vệ công lý, sống công bình, và triệt tiêu mọi bất công. Chúng con
cầu xin nhân
danh Đức Giêsu
Kitô, Đấng Cứu
Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|