VẤN ĐỀ CÁNH CHUNG
PHI LỘ – Cánh Chung, Thế Mạt hoặc Tận Thế,
Hy ngữ là έσχατος
– nghĩa là “cuối cùng”, đã
được Chúa
Giêsu đề cập
nhiều lần, đặc biệt là Bài
Giảng về Cánh
Chung trong Mt 24. Qua trình thuật
của Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu cho biết các dấu chỉ và hiện tượng sẽ xảy ra trước
khi Ngài quang lâm, đặc biệt Ngài cảnh báo về các ngôn sứ giả, chớ nhẹ dạ cả
tin kẻo mắc lừa các chiêu bài của họ. Ngài
nói rất cụ thể:
“Xác chết nằm đâu,
diều hâu tụ đó.” (Mt
24:28). Trong cuốn
“Eschatology In The Making” (Thuyết Thế Mạt Đang Tiếp
Diễn), học giả Vicky Balabanski bàn luận một số chi tiết thú vị về Cánh Chung. Xin trích dịch một đoạn để hầu
quý vị.
✠ ✠ ✠
Có những
dấu hiệu trong Tân Ước và các nguồn đáng tin cậy cho biết rằng việc trì
hoãn cuộc tái
lâm của Đức Kitô
đã giới thiệu Giáo Hội sơ khai với vấn đề
thần học và tận
thế.
Theo cách hiểu hiện đại, việc trì
hoãn cuộc tái
lâm của Đức Kitô và
tình trạng được
coi là sự thất vọng
đã được coi là yếu tố đầu tiên,
và trong một số trường
hợp thực sự là yếu
tố đầu tiên, trong việc phát triển Thuyết Thế Mạt Kitô
Giáo. Trong cuốn “The Formation of
Christian Dogma” (Sự Hình Thành Giáo Lý Kitô Giáo), thần học gia M. Werner cho biết: “Càng
lâu xảy ra cuộc tái
lâm của Đức Kitô và
các sự kiện cuối
cùng xảy ra tiếp
theo, sự thuyết phục càng giảm đối với sự kiện tận
thế có trong thời các tông đồ, khi Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, và tầm quan trọng của ngày tận thế.” Như vậy, vấn đề này
không được coi là một Thuyết Thế Mạt, mà là
vấn đề cơ bản của
Kitô học.
Do đó, có lẽ không ngạc nhiên gì khi vấn đề này đã được các học giả Kinh Thánh chú ý nhiều và hệ thống hóa trong thế kỷ trước. Cách
nhìn khái quát mà cách hiểu
hiện đại đã tìm cách giải quyết vấn nạn đó bằng cách này: Coi đó là chìa
khóa để giải thích
và hệ thống hóa
đối với các
cách phát triển trong Giáo Hội thời sơ khai, và loại bỏ nó hoặc tìm kiếm các phương pháp
khác.
Cách phát triển hiện đại của việc
nghiên cứu Thuyết Thế
Mạt trong Tân Ước
với tác phẩm của J. Weiss
là cuốn “Jesus’
Proclamation of the Kingdom of God” (Tuyên Bố của Chúa Giêsu về Vương Quốc Thiên
Chúa). Trong đó, tác giả
tìm cách làm rõ bản
chất tận thế trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu về Nước Chúa. Mặc dù luận điểm của Weiss đã
được báo trước tới mức độ nào
đó bởi O. Schmoller và E.
Issel, và bởi tác phẩm của H. S. Raimarus, không
phải tới khi luận án của Weiss nói rằng tầm quan trọng của Nước
Chúa theo Thuyết Thế Mạt
tương lai mới có theo cách hiểu của các học giả người Đức,
điều này lúc đó đã được định rõ theo chủ nghĩa nhân văn phóng khoáng của Ritchlian. Weiss bắt đầu cho thấy
rằng sự hiểu biết đã được chấp nhận về Nước
Chúa đã bị mất ý nghĩa
nguyên thủy về khải
huyền thế mạt, và “Nước Thiên Chúa là siêu quốc gia đứng đối lập với
thế gian này. Nghĩa là có thể không nói về sự phát triển nội bộ của Nước Chúa
trong tâm trí của Chúa
Giêsu!”
Weiss tìm cách chứng minh rằng Vương Quốc mà
Chúa Giêsu mong đợi không
thuộc tương lai và hiện tại, nhưng đặc biệt
là tương lai. Điều
này trình bày việc
thiết lập thần học Đức, đấu tranh
với thử thách của
D. F. Strauss về tính lịch
sử của Chúa Giêsu, với
vấn đề nền tảng: Nếu thực sự
mong ước của Chúa Giêsu là ngày tận thế sắp xảy ra thuộc về
tương lai, được xây dựng ít nhất trong một thế hệ, đức
tin có thể tạo nên
điều gì mà
Chúa Giêsu đã bị hiểu lầm
như vậy? Nhưng ngay khi đưa ra vấn đề,
Weiss quay trở lại từ lề mép,
nói rằng chúng
ta không chia sẻ niềm mong chờ
này, nhưng có thể
vui vẻ tin rằng thế gian này là đấu trường mà mục đích của Thiên Chúa được thực hiện.
Tác phẩm
của Weiss đã tạo
cho A. Schweitzer một “lực đẩy” để công
thức hóa các tư tưởng gây tranh luận của ông về Thuyết Thế Mạt của Chúa
Giêsu và các tông đồ,
và để biện hộ
một chương trình mà ông gọi là “Konsequente Eschatologie”
(Thuyết Thế Mạt
Kiên Định). Ông
định nghĩa chương
trình này trong cuốn
“Out of my Life and Thought” (Ngoài Cuộc Đời và Tư Tưởng Của Tôi) như sau:
Đối
với cách hiểu lịch sử
về cuộc đời Chúa Giêsu... cần nghĩ ra mọi hệ quả của
sự kiện mà Ngài thực
sự sống trong thế giới thời thế mạt và cứu độ của Do Thái
giáo, và cố gắng hiểu
cách giải quyết và
hành động của Ngài
không chỉ bằng sự
cân nhắc được
rút ra từ khoa tâm lý
bình thường, mà còn
bằng các lý do được cung cấp bởi sự mong chờ
tận thế của Ngài.
Schweitzer không chỉ dùng thử thách của Weiss mà còn dùng của Strauss khi đọc hiểu Thuyết
Thế Mạt trong Phúc Âm theo Thánh Máccô, và đặc biệt là Thánh Mátthêu. Theo ông, việc đọc hiểu này
làm cho tính lịch sử của
các Phúc Âm trở nên rõ
ràng. Schweitzer cho thấy rằng
việc đọc hiểu lịch sử – Thuyết Thế
Mạt Kiên Định
– của Chúa Giêsu để lại cho chúng ta một con người “kỳ lạ” hoặc
“bí ẩn” đối với
thời đại của chúng ta. Nhưng ông cũng
trở lại từ đầu mà một kết luận như vậy có thể tiếp cận bằng cách dựa vào thực tế không thuộc bài giảng lịch sử: “Chúa
Giêsu có ý nói điều
gì đó với
thế giới chúng ta vì sức mạnh tâm
linh phát xuất từ Ngài và
cũng tuôn chảy
tới thời đại chúng ta. Sự thật này không thể lay chuyển hoặc xác
định bằng bất
cứ phát hiện nào về lịch sử. Đó là
nền tảng vững
chắc của Kitô giáo.”
Có thể
không có gì ngạc nhiên,
những người khác
không chia sẻ sự tự
tin của Schweitzer về việc thiết lập một nền
tảng vững chắc đối với Kitô
giáo. Một sự đòi hỏi phi lịch sử không
thể đủ để bù
đắp niềm tin về
Chúa Giêsu khi thực
tế lịch sử lưu ý Đấng Thiên Sai bị hiểu lầm về sự mong
đợi. Vấn đề này không phù hợp với sự mong đợi khải
huyền – Chúa Giêsu ở
phía sau thế giới
được coi là cuối thời khải huyền của Do
Thái giáo. Vả lại, vấn
đề có sự
chưa hoàn tất
của sự mong đợi thời thế mạt; mặc
dù các Kitô hữu ở các thế kỷ trước có làm
sáng tỏ sự trì
hoãn như vậy hoặc không
nhận biết điều đó, thần học hiện đại đòi hỏi phải tính đến vấn đề này.
Đây là nền tảng ngược với nhiều
nghiên cứu trong thế kỷ
XX về Thuyết Thế Mạt Kitô Giáo. Các thần học gia loại bỏ chương
trình “Thuyết Thế Mạt
Kiên Định” của
Schweitzer và phản
đối tuyên bố
này, mới đầu do
Weiss tạo ra, cho rằng Nước Chúa
không thể được
hiểu về cả hiện tại và tương
lai. Nếu cách
hiểu của Chúa
Giêsu về Nước Trời
liên quan hiện tại và tương
lai, sự hiểu lầm
về thời gian tái lâm trong tương lai là tương
đối và như
vậy là bị giảm bớt.
Đối
với các thần học gia chấp
nhận chương trình “Thuyết Thế Mạt Kiên
Định” của
Schweitzer, sự trì hoãn (hoặc
không hoàn tất) của
sự tận thế được hiểu như vấn
đề quan trọng, không chỉ đối với thế kỷ XX, mà còn
đối với toàn bộ lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là sự phát triển của Giáo Hội thời kỳ sơ khai. Schweitzer
tranh luận rằng sức mạnh lèo
lái phía sau toàn bộ lịch sử
Kitô giáo là điều
cần để làm mất
tính thế mạt của
điều chưa xảy ra thuộc về tận thế.
Như vậy,
điều chưa xảy ra thuộc về tận thế
trở nên vấn đề quan
trọng đối với thần học của thế kỷ
XX, nhưng không được coi là vấn đề đặc biệt đối
với thời hiện đại trong trường hợp
đầu tiên. Thật
vậy, như đã trích dẫn trước, điều đó
được hiểu là dụng cụ để giải thích
đối với việc
kiểm tra sự phát triển về thần học của thế
kỷ I.
M. Werner áp dụng điều này đối với sự phát
triển của giáo lý
trong Giáo Hội thời sơ
khai, trước tiên có trong cuốn sách của ông có tựa đề là “The Formation of
Christian Dogma” (Sự Hình
Thành Giáo Lý Kitô Giáo), và sau đó có trong tác phẩm chi tiết hơn của ông
có tựa đề là
“Der protestanische Weg des Glaubens” (Cách Tin của Tin Lành). Một cách giải thích khác về “Thuyết Thế Mạt Kiên
Định” của F.
Buri, với tác phẩm
“Die Bedeutung der neutestamentlichen Eschatologie” (Ý Nghĩa
của Thuyết Thế Mạt trong Tân Ước).
Khái niệm
về trung tâm của
việc trì hoãn tận
thế khi hình thành Thuyết Thế Mạt Kitô
Giáo thời kỳ đầu
đã được H.
Conzelmann áp dụng đối với
Phúc Âm theo Thánh Luca. Học
giả E. Grässer đã nghiên cứu các Phúc Âm nhất lãm và sách Công Vụ từ viễn cảnh này.
Tuy nhiên, Grässer cho rằng
những người dẫn giải “Thuyết Thế Mạt
Kiên Định” đã quá
chú trọng tới yếu
tố trì hoãn thời tận
thế bằng cách bỏ
qua các yếu tố khác
làm cho Giáo Hội thời sơ
khai có các thuật ngữ với
sự trì hoãn, chẳng hạn
như các tư tưởng
ngộ đạo.
Mặc
dù vậy, Grässer
tiếp tục chú giải các Phúc Âm nhất lãm và sách Công Vụ, dùng sự trì hoãn của thời tận thế là
chìa khóa chú giải bản văn
Kinh Thánh cổ để phân biệt truyền thống xác thực của hệ thống Kitô
giáo thời sơ khai và
để xác
định thời kỳ
của truyền thống riêng biệt. Khi làm vậy, ông đã tạo ra một chu kỳ chú giải rất giống với Schweitzer và Werner,
thậm chí còn có tính “bất khả ngộ” hơn một chút
liên quan việc chúng
ta mong đợi Chúa
Giêsu.
Như vậy,
nghiên cứu chú giải và hệ thống về Tân Ước dựa trên nền tảng của lý
thuyết cho rằng Giáo Hội thời sơ khai được
định hình bởi
sự thất vọng mà nó trải qua khi mong chờ tận thế. Tuy
nhiên, có một số học
giả đặt vấn đề rằng Giáo Hội thời sơ khai có bị “khủng hoảng” vì tận thế mà các học giả ngày nay tìm hiểu hay không – chẳng hạn như học giả G.
Bornkamm. Theo quan điểm của ông, các tài liệu Tân Ước không phản ánh sự thất vọng khi đã có
niềm mong đợi.
Sự
thật là Giáo Hội
thời sơ khai đã vượt qua những điều chưa xảy
ra của ngày tận
thế mà không có sự gián
đoạn quan trọng và
không ngừng hy vọng tận
thế, có vẻ
như đối với ông là vấn đề chưa sáng tỏ. Các học giả khác, như E. von Dobschütz
và C. H. Dodd, coi vấn đề
trì hoãn tận thế là vấn đề rõ ràng, và ông tranh
luận rằng ngày tận thế của Chúa
Giêsu tập trung vào thực tại của Nước Chúa hơn
là tương lai. Theo quan điểm
của Dodd, mặc dù Chúa Giêsu sử dụng ngôn ngữ của thời cánh
chung khải huyền,
điều này vẫn
thực sự có ý nghĩa để mô tả
một thực tế cao xa hơn.
Có vẻ
như khi Chúa Giêsu sử
dụng biểu tượng truyền thống của sự
khải huyền để chỉ định tính
cách “thế giới khác”
hoặc tuyệt đối về Nước
Chúa, Ngài dùng các dụ
ngôn để củng cố
và minh họa ý tưởng rằng Nước Chúa
đã đến ở đó và
lúc đó. Điều kỳ lạ
đã xảy ra: lịch sử
trở nên vật chuyển tải
điều vĩnh cửu, điều tuyệt đối
được che phủ bằng thịt và
máu.
Đối
với Dodd, Chúa Giêsu lịch
sử không có gì bị hiểu lầm;
hơn nữa, Ngài sử
dụng ngôn ngữ
tượng trưng. Theo Dodd, điều này
không được hiểu
bởi Giáo Hội
thời sơ khai, rồi hiểu những lời tiên
báo khải huyền theo
thuật ngữ của thời thế mạt phát
triển.
Bằng
cách áp dụng như chìa
khóa chú giải, những lời
nói về Nước Chúa trở nên thực tế rõ ràng, ông cho những lời nói định hướng tương lai là phụ thuộc đối với cách
hiểu thời tận thế của
Chúa Giêsu. Theo đó, ông giải
quyết sự căng thẳng về tận thế giữa
những gì “đã có” và “chưa có” bằng cách phác họa có vẻ là sự
căng thẳng, sự thiếu hiểu biết về Giáo Hội thời sơ khai. Một số lời
phê bình có thể trái ngược với cách giải quyết như vậy.
1. Giáo Hội
thời sơ khai được hiểu để có thần học về Vương quốc của
Chúa Giêsu đã được
hình thành Thuyết Thế Mạt
lần đầu, và sau đó đưa ra cách hiểu (được hướng dẫn
sai) về sự trì hoãn tận
thế, làm đảo
ngược quá trình và loại bỏ Thuyết Thế Mạt.
Điều này đặt
ra hai xu hướng đối lập trong Giáo Hội thời sơ khai trong một khoảng
thời gian rất ngắn, điều này trở thành vấn đề khó giải quyết, dù không phải là không thể.
2. Dodd tìm kiếm “nền tảng vững chắc của
Kitô giáo”, dùng cách nói của
Schweitzer, nơi Chúa Giêsu là người trổi vượt trong thế giới
tư tưởng của Ngài mà cách hiểu của Ngài về sự hiện hữu của Vương
Quốc Thiên Chúa ở
nơi chính Ngài và sứ vụ của
Ngài bị hiểu sai nhiều.
3. Lý thuyết
của Dodd có sự
giống nhau nào đó đối với chương trình
“loại bỏ thần thoại” của
R. Bultmann, bằng cách dùng các phạm trù của Thuyết Hiện Sinh (trường
phái Heidegger), để
tìm cách hiểu các
huyền thoại như vậy giống
như quan điểm của thế giới khải huyền
theo cách con người
xây dựng hơn là giống như cách giới thiệu của khoa học về thực
tế bề ngoài. Dodd cố
gắng giải thích rằng
người ta nghi ngờ Bultmann cố gắng làm
theo thần học hệ
thống. Tuy nhiên, điều
mà đối với Bultmann
là sự khác biệt giữa thế giới tư tưởng
cổ xưa và hiện
đại, thì có vẻ
như đối với Dodd lại là sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và xã hội đương thời của Ngài,
để rồi Ngài
đã thoát khỏi vẻ bề
ngoài của khải huyền
và đặt giữa phạm
vi của Thuyết Thế Mạt hiện đại theo hướng
hiện sinh.
Như vậy,
cách giải quyết “Thuyết
Thế Mạt Thực Tế Hóa” của Dodd không thể giải quyết, mà
cách xây dựng của những
người dẫn giải cũng chẳng thỏa mãn. Cả hai đều hiểu phương diện
quan trọng của truyền thống, nhưng mỗi người
lại giải quyết sự căng thẳng giữa Vương
Quốc hiện tại và Vương Quốc tương lai, ưu tiên
nhóm này hơn nhóm kia. Hơn nữa,
cả hai đã trình bày rõ ràng lý thuyết của họ về nền tảng
của cách giả định hiện
đại. Mặt khác, “Thuyết Thế Mạt Thực Tế Hóa”
tái xây dựng một Chúa
Giêsu rất hiện đại,
cách dùng ngôn ngữ
khải huyền của Ngài chỉ là tượng trưng, và đối với Ngài, sự hiện hữu của Vương Quốc
làm cho thời gian qua
đi không quan trọng. Mặt
khác, “Thuyết Thế Mạt
Kiên Định” quy cho
Giáo Hội thời sơ
khai sự khủng hoảng về tận thế và thần học mà các học giả cho rằng điều đó nên
có, nhưng lại không
được phản ánh
trong các tài liệu.
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ)
Mùa Cầu Hồn và cuối Năm Phụng Vụ – 2019
|