MÁU CÔNG LÝ
MÁU ĐỎ TƯƠI
MÀU CHÂN LÝ ĐỨC CHÚA
TÌNH
HỒNG THẮM SẮC NGHĨA NHÂN CON NGƯỜI
Công lý và
chính nghĩa có ý nghĩa tương tự, gần như
đồng nghĩa. Công lý là lẽ phải, lẽ
chung của mọi người; chính nghĩa là ý nghĩa chính đáng. Đó là lý lẽ đúng đắn theo lương tâm chính trực, là cái
người
ta phải theo, phải giữ. Những người tốt
luôn tranh đấu cho chính nghĩa, đòi hỏi công lý, chống lại bất công.
Chính nghĩa
cũng đa dạng, nếu được hiểu là chủ nghĩa thì
có tốt
và có xấu: Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tôn giáo, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa
độc tài, chủ nghĩa dân chủ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa chuyên chế, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng
sản, chủ nghĩa quân phiệt,... Người
ta cũng gán cho chúng các màu sắc như xanh,
đỏ, đen, trắng,...
Ở
đây, chúng ta chỉ đề cập
công lý hoặc chính nghĩa theo nguyên tắc chân lý của Thiên
Chúa, bởi
vì chỉ có chân lý mới thực sự giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ kiềm chế,
như Chúa Giêsu đã nói với người
Do Thái: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết SỰ THẬT,
và SỰ THẬT sẽ giải
phóng các ông” (Ga 8:31-32).
Người ta rất sợ
sự thật. Người ta càng
sợ
hơn khi mình gian dối lọc lừa
mà bị phanh phui. Gian dối,
thêm bớt là ác quỷ (Mt 5:37), ác
quỷ là bóng tối (màu
đen); thẳng thắn, nghiêm túc là
ánh sáng (màu trắng). Thánh Vịnh nhắn nhủ:
“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người
sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ
ra tay. CHÍNH NGHĨA bạn, Chúa sẽ làm
rực
rỡ tựa bình minh, CÔNG
LÝ bạn,
Người sẽ cho huy hoàng
như chính ngọ” (Tv 37:4-6). Như vậy, “chính nghĩa” và “công lý” không xa nhau, tức là gần nhau – đặc biệt là hiểu theo nghĩa Kinh Thánh, và tất nhiên có
liên quan sự
thật.
Như
chúng ta đã biết, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả
là “dị nhân đặc biệt”, dạng “con cầu con khấn”
của ông Dacaria (tư tế đền thờ
Giêrusalem, dòng tộc Aharon) và bà Êlidabét (chị họ của Đức
Maria, cũng dòng tộc Aharon). Gioan là “đứa trẻ lạ” về nhiều thứ
(x. Lc 1:5-23), là anh họ và chỉ hơn Chúa
Giêsu 6 tháng tuổi, là “dấu cộng” của Cựu
Ước và Tân Ước, có lối sống “bụi đời” chẳng
giống ai: Mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da; dùng loại ẩm thực cũng khác người: Châu chấu và mật ong rừng (Mt 3:4; Mc 1:6). Món ăn lạ và cũng
là “hàng hiếm”
đấy.
Gioan vốn dĩ có bản tính cũng
khác thường là thật thà và thẳng thắn, thế nên ông cũng bị thua thiệt và te tua tơi tả – nói theo kiểu bình dân của người
miền Bắc là “thua tất tần tật”
hoặc của người miền Nam là “thua tuốt luốt” – kiểu nào cũng toàn là mẫu tự T (chữ Tê, âm Tờ). Cũng là
lẽ tất
nhiên thôi. Đời là thế mà! Mặc dù biết rõ
như vậy,
nhưng ông nhất định không a dua, không tâng bốc, không xu nịnh, không ngả theo chiều
gió, quyết tâm bảo vệ LẼ PHẢI và CÔNG LÝ tới cùng bằng mọi giá, như ca dao Việt Nam có câu: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng
ba chân”. Quả thật, Gioan là ngôn sứ luôn sống và đấu tranh cho sự thật, theo công lý của Thiên
Chúa.
Những người
“không giống ai” có hai loại – một là
“siêu nhân” đúng nghĩa, hai là “chạm mạch”. Nhưng
Gioan Tẩy Giả là dạng đặc
biệt, là “dị nhân” chính hiệu, khác
người
từ bên trong đến bên ngoài. Tuy nhiên, ông không cố ý tạo “phong cách”
đó để “chơi nổi” hoặc “tạo sự chú ý”, mà ông thật lòng
khiêm nhường, không cần gì bề ngoài, và
ông làm mọi
thứ chỉ để tôn vinh
Thiên Chúa, vì ông có tâm nguyện: “Chúa Giêsu phải NỔI BẬT lên, còn tôi phải LU MỜ đi” (Ga 3:30). Điều
tâm nguyện của ông khiến mỗi chúng
ta phải
tự “sờ gáy” mình để có thể tự chấn chỉnh trước
khi quá muộn. Thánh Gioan sống như vậy chứng tỏ ông là người rất khôn ngoan: Chọn ích
lợi
cho Chúa, không chọn ích lợi cho mình
hoặc
cho bất cứ ai. Sự đơn giản của ông rất phức tạp, cái nghèo nàn của ông
rất phú quý, tính bình dân của ông rất sang trọng. Thật lạ lùng!
Phúc thay
người
biết sống khôn ngoan, vì
Đức
Khôn Ngoan vô giá. Kinh Thánh cho biết: “Đức
Khôn Ngoan quý trọng hơn cả
vương trượng, ngai vàng, trân châu bảo ngọc; so với Đức Khôn Ngoan, vàng trên cả thế giới cũng
chỉ là cát bụi, và bạc cũng kể như bùn đất” (Kn 7:8-9). Con người
luôn sai lầm nên rất cần sự khôn ngoan, thiếu khôn
ngoan rất
nguy hiểm: “Người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần” (Hc 19:23). Ai cũng
cần phải cầu xin Chúa
ban cho ơn khôn ngoan – một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần.
Người khôn ngoan là người biết sống
theo Thánh Ý Chúa. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền lệnh cho
ngôn sứ Giêrêmia: “Còn ngươi, ngươi hãy
thắt
lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì
Ta sẽ
truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi ĐỪNG RUN SỢ; nếu
không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (Gr
1:17). Thắt
lưng, chỗi dậy, nói và
không sợ
– một loạt các động từ cần
thực hiện một lượt. Phải dứt khoát mới khả thi. Không can đảm “đứng thẳng” theo lời Chúa mà lại “khom lưng” thì… chết chắc, vì
sẽ bị
phản tác dụng. Cái gì phản tác dụng hoặc phản
ứng phụ thì đều nguy hiểm.
Khôn thì nghe, dại thì chết. Đó
là lẽ
thường, nhưng cũng không
ngoài ý định của Thiên Chúa.
Đức khôn ngoan và đức vâng lời có liên
quan lẫn
nhau. Người vâng lời Thiên Chúa là người khôn ngoan, mọi chuyện xuôi chèo mát mái, sức khỏe chợt phi thường, vì sức mạnh đó là sức mạnh của Thiên
Chúa, Đấng toàn năng uy dũng.
Thật vậy,
Ngài hứa chắc: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên
thành trì kiên cố, nên cột sắt
tường đồng chống lại cả xứ: từ
các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và
toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến
với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì có Ta ở với ngươi để GIẢI
THOÁT ngươi” (Gr 1:18-19). Thiên Chúa là Đấng tín thành nên Ngài cũng quý người thành tín.
Thật khôn ngoan khi Thánh Vịnh gia nhận biết
rạch ròi: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng
ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118:9). Tuy nhiên, đã ẩn náu
nơi Ngài thì phải tín thác vào Ngài, tín thách
tuyệt
đối, đừng “chân
trong, chân ngoài”. Có những người nói tin Chúa nhưng vẫn coi trọng tiền
bạc, chức quyền, danh lợi,… nếu vậy chỉ
là giả vờ, Thiên Chúa và chính nhân cảm thấy sợ hãi và nhạo cười: “Nó đích thị là người chẳng lấy Chúa làm nơi ẩn náu, nhưng chỉ TIN CẬY vào đống tiền đống của và KHOE KHOANG mưu độc của mình” (Tv
52:9). Lạy
Chúa, thế thì kinh khủng quá. Mất Chúa là mất tất cả!
Với kinh nghiệm
sống, ai cũng khả dĩ biết rằng tiền bạc
có mãnh lực khó chống lại, không chỉ mãnh lực mà là ma lực, thế nên
người
ta coi nó là một vị thần: Thần
Tài. Thật không dễ thoát khỏi vòng kiềm tỏa của “thần tài” đó. Ngay cả các giáo sĩ và tu sĩ, đã thề sống thề
chết với Chúa là “sống khó nghèo”, thế mà
có những
người cứ ngửi thấy mùi tiền là cười tít mắt, vội vàng
vơ vét vào. Thật đấy, chẳng oan đâu! Không thể nào
kể hết
loại này – từ dạng “nặng” tới
dạng “nhẹ”, mức độ nào cũng có. Đã có mấy ai thật lòng DÁM “bụi đời” và DÁM thể hiện lối sống đơn nghèo như Gioan Tẩy Giả? Đôi khi chỉ lẻo mép.
Vả lại,
ngày nay người ta “tinh vi” và có nhiều cách biện hộ lắm,
mặc dù Chúa Giêsu đã căn
dặn: “Đi
đường, đừng mang bao bị, đừng mặc
hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy” (Mt 10:10; x. Lc 9:3 và Lc 10:4). Thánh Phanxicô Assisi là người đã thực sự đổi đời nhờ
lời dặn đó của Thầy Chí Thánh Giêsu.
Lời Thánh Vịnh như muốn nhắc nhở chúng ta phải “mở mắt to” để can đảm
nhận sai lầm mà có thể kịp sửa
đổi: “Con ẩn náu
bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để
con phải tủi nhục bao giờ. Vì Ngài công chính, xin cứu vớt và giải thoát
con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ
con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài”
(Tv 71:1-3). Thật là không dễ, vì đôi khi cảm thấy... ái ngại lắm!
Ai có thể nói được như vậy mà không hổ thẹn thì
mới có thể tín nguyện: “Lạy
Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ, khỏi móng
vuốt
phường nham hiểm và
bọn
dã man. Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con TRÔNG ĐỢI, lạy Đức
Chúa, chính Ngài là Đấng con TIN TƯỞNG
ngay từ độ thanh xuân.
Từ
thuở sơ sinh, con NƯƠNG TỰA vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con CA TỤNG Ngài chẳng khi ngơi” (Tv 71:4-6).
Bất cứ ai biết
khôn ngoan tín thác vào Chúa thì khả dĩ nhận
biết mọi thứ đều là hồng
ân, còn mình vừa vô duyên vừa vô dụng, và rồi họ phải thốt lên: “Miệng con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu
độ Ngài ban, ơn của Ngài, nhiều khôn xiết kể!” (Tv 71:15). Những con người khôn ngoan đích thực và không tin cậy gì
khác ngoài Chúa thì họ không thể giấu giếm sự
thật và không ngại thổ lộ:
“Từ độ thanh xuân,
lạy
Thiên Chúa, con đã
được Ngài thương
dạy
dỗ. Tới giờ này,
con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài” (Tv
71:17). Phúc đức thay!
Lòng trung
thành của
họ vẫn một mực như vậy – mọi nơi
và mọi lúc, chứ không phải cảm thấy
vui thì theo, cảm thấy buồn thì nghỉ. Người đời cũng có kinh nghiệm: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Có “bị” thử lửa mới biết là vàng hay thau. Khi ta cười thì nhiều người vỗ tay, khi ta khóc thì chẳng còn ai ở gần. Cuộc
đời cho chúng ta thấy rõ chân tướng thực dụng và xảo trá. Cần ghi nhớ:
Người bạn chân thành là
người
ở bên ta trong lúc ta đau khổ và tuyệt vọng nhất, ngoài ra chỉ là “bè” chứ không là “bạn”. Vì thế, trên hành trình “theo Chúa” cũng không ngoại trừ: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì
Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Đó mới là hạt lúa tốt.
Người Việt so sánh: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Chúa
Giêsu so sánh tuyệt đối: “Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã HY SINH TÍNH MẠNG vì bạn hữu của mình” (Ga
15:13). Người đầu tiên là
Đức
Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng đã liều mạng vì
các tội
nhân chúng ta. Thánh Gioan Tẩy Giả không là người thí
mạng vì người khác,
nhưng ông đã liều chết vì
sự thật,
vì lẽ phải, vì công lý, vì chính nghĩa. Đó cũng là
chết vì Chúa, cũng là một dạng tử
đạo. Tử đạo thường liên quan việc đổ máu. Với Thánh Gioan Tẩy Giả,
đó là Máu Công Lý.
Như
chúng ta đã biết, máu có màu đỏ đặc
trưng, là chất cần thiết và biểu hiện sự sống, chiếm 7%
trọng lượng cơ thể. Người trưởng
thành trung bình có khoảng 5 lít máu, bao gồm một số loại huyết
cầu khác nhau, còn gọi là thành phần hữu hình,
và huyết
tương. Huyết cầu gồm hồng cầu, bạch
cầu, và tiểu cầu. Theo thể
tích, hồng cầu chiếm
khoảng 45% số tế bào
máu, huyết
tương chiếm khoảng 54,3%, và bạch
cầu chiếm khoảng 0,7%. Các
rối loạn
về thành phần cấu tạo của
máu hoặc ảnh hưởng
đến sự tuần hoàn
bình thường của nó có thể dẫn đến
rối loạn chức năng của nhiều cơ phận,
ảnh hưởng sự sống.
Chính Chúa
Giêsu đã minh định: “Tôi là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14:6). Rồi Ngài cũng đã xác nhận trước mặt
Tổng trấn Philatô: “Tôi
đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục
đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Nghe vậy, ông Philatô giả ngay giả ngô nên hỏi lại: “Sự thật là gì?” (Ga
18:38). Đúng là cáo già, cố ý né tránh
chứ không phải là không
biết.
Ngày nay cũng tương tự, vẫn thấy
xuất hiện những người “di truyền” loại
gen Philatô.
Lời thật làm mất lòng. Thuận ngôn gây nghịch nhĩ. Thế nên khi nghe lời can ngăn của ông Gioan, vua Hêrôđê “không lọt tai” nên đã sai người đi bắt ông và xiềng ông trong
ngục.
Lý do là vì vua đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người
anh là Philípphê – chị dâu của mình.
Đó là tội loạn luân. Có lẽ “gái một con” đã
khiến ông “mòn con mắt” nên
ông “mù mắt”
và bất chấp tất cả.
Có điều lạ là chính phụ nữ này
cũng tỏ
ra thú vị vì mình đã “cưa đổ” một quốc
vương, và cũng lạ nữa là cô con gái của phụ nữ này cũng vào hùa với người chú và người mẹ. Ba con người kỳ
cục kết thành “chiếc kiềng ma
quỷ”.
Tại sao ngôn sứ Gioan bị án tử? Tội chết của ông
là vì ông dám can ngăn vua: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mc
6:18). Rõ ràng bà Hêrôđia có thể một phần cũng “phải lòng” ông Hêrôđê, một phần vì tự ái phụ nữ bốc
lên tới chỏm đầu,
tự ái vì không phụ nữ nào chịu mình kém sắc người
khác, bà ta đâu thèm “cưa
đổ”
đám quan lại triều đình mà “cưa đổ” chính nhà vua, thế nên
bà ta mới
CĂM THÙ và MUỐN GIẾT ông Gioan, nhưng không được. Tự ái dồn dập, máu
tức giận
bốc cao như lửa cháy
phát ra từ
tòa nhà cao tầng. Phụ nữ muốn
là trời muốn. Và còn hơn thế nữa, như
người ta ví von: “Nhất vợ, nhì trời”. Vợ hai lớn hơn vợ cả, bồ
nhí còn to hơn nữa. Ngược
chiều. Đó là ảo giác ma túy, ngáo đá ma quỷ.
Chính ông
Hêrôđê biết rõ ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn
che chở
ông. Khi nghe ông nói “điều phải”, nhà vua rất PHÂN VÂN
mà vẫn
THÍCH NGHE. Thế nhưng tình yêu gian tà khiến ông ta điên đảo và mù quáng. Biết ông
Gioan công chính mà không dám bảo vệ. Hêrôđê
hèn nhát! Ngày nay, hạng người như “con cáo già” này cũng chẳng thiếu, nhưng thời nay người
ta có “cách” bí hiểm hơn nhiều, rất
khéo léo khi “ném đá giấu tay” hoặc
“giật dây”. Nham hiểm khó lường. Kinh khủng lắm!
Ma lực của quỷ
rất mạnh, không dễ cưỡng
lại. Lòng gian tà như sóng ngầm cứ cuồn
cuộn chảy, chưa thực hiện được thì chưa thỏa chí.
Và rồi
thời điểm thuận tiện đã đến: Đó
là dịp
mừng sinh nhật của mình,
vua Hêrôđê mở tiệc đãi bá quan
văn võ và các thân hào miền Galilê.
Con gái bà Hêrôđia có màn biểu diễn một điệu vũ, không biết hấp dẫn thế nào mà nhà vua và các thực khách đều mê ly, mụ mẫm cả
đầu óc, mờ mịt cả tầm
nhìn.
Theo lẽ thường,
dự tiệc thì hẳn có chút men cay, có lẽ nhà vua đã ngà ngà rồi mới hứng chí nói với cô gái: “Con
muốn
gì thì cứ xin, ta sẽ
ban cho con” (Mc 6:22). Thậm chí lão ta còn
thề
độc: “Con xin gì, ta
cũng cho, dù MỘT NỬA NƯỚC của ta cũng
được” (Mc 6:23). Chỉ vì “cái tôi” của mình mà dám bán nước cho một
đứa con gái nhãi ranh! Lão già
dê Hêrôđê này không phải là tay vừa: Mê say mẹ mà vẫn đắm
đuối con gái của mẹ nó. Quái thật!
Vừa nghe “ông chú” Hêrôđê nói vậy, cô gái liền đỏng đảnh đi hỏi
mẹ xem nên xin gì. Mẹ cô lạnh lùng gằn giọng chắc
nịch: “Đầu Gioan Tẩy Giả” (Mc 6:24b). Phụ
nữ nham hiểm còn hơn
đàn ông. Sóng ngầm mạnh hơn sóng cồn. Càng nham hiểm hơn khi hai cái đầu phụ nữ liên kết với nhau.
Đúng như khoa tâm lý phát hiện: “Khoảng
giữa cái muốn và cái không muốn ở phụ nữ,
dù chỉ một sợi tóc cũng không lọt”. Ngay lập tức,
cô vội trở vào đến bên nhà
vua và ỏn
ẻn: “Con muốn ngài
ban ngay cho con cái đầu ông
Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm” (Mc 6:25). Nghe lời xin đó, nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã TRÓT THỀ, mà lại thề công
khai trước các thực khách, thế nên không
muốn
thất hứa với cô. Bản chất hèn nhát hiện rõ. Sĩ
diện hão!
Cũng
chính vì thứ
sĩ diện hão đó mà
Hêrôđê không ngần ngại sai thị vệ đi lấy thủ cấp
của ông Gioan để làm quà tặng cho hai con quỷ cái. Một lúc sau,
thị vệ
bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. Bi kịch kết
thúc não nề quá! Bi kịch về cái
chết của
ông Gioan có thể là chuyện không lạ lắm,
nhưng bi kịch về lòng
người
độc ác dành cho nhau mới đáng sợ. Người ta có thể vì những thứ nhỏ
mọn và vì ích kỷ mà sẵn sàng nhẫn tâm với bất cứ ai. Cuộc sống
đã và đang cho thấy như vậy!
Thật buồn khi lẽ
phải bị bóp méo, sự thật bị
che khuất, công lý bị chà đạp, chính nghĩa
bị biến
dạng. Không chỉ vậy, người
ta cũng vẫn thường xuyên
thiếu
tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền – đủ dạng và đủ mức độ. Đó là bi kịch của con người tự tạo
ra chỉ vì hướng theo cái xấu để thỏa mãn ý riêng. Và người ta cũng luôn có đủ lý lẽ để tự
biện hộ cho những động thái sai trái của mình,
không muốn
phục thiện. Thánh Phaolô
đã từng
phải than phiền: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Điều đó càng dễ nhận thấy rõ nét hơn trong xã hội ngày nay: Bất công,
đàn áp, sự dữ,...
Liên quan vấn đề sự
thật, lẽ phải, công lý,
chính nghĩa,… có nhiều vấn nạn. Một trong các vấn đề liên quan là quyền tự do – tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn luận, biểu tình, hội họp,... Sự thật mãi là sự thật, không
thể
che giấu, cũng không thể bóp méo hoặc viện cớ bất kỳ lý do nào. Thà chết vinh hơn sống nhục. Nói dễ nhưng khó
thể hiện.
Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền
(TGP Huế, 1921-1988) nhận xét:
“Đã có những giám
mục
chịu tử đạo, nhưng chưa có giám mục nào dám chết vì
công bằng xã hội”. Có lẽ ngài là
người
đầu tiên chết vì công lý như vậy. Và người ta gọi ngài là “tổng giám mục dũng cảm”.
Ngày
xưa, danh tướng Trần Bình Trọng vẫn luôn bất khuất ngay cả khi bị giặc
bắt, và ông vẫn khẳng khái tuyên bố: “Thà
làm quỷ nước Nam còn
hơn làm vương đất Bắc”. Ông chết vì đại nghĩa, vì công lý của dân tộc. Cái chết của Thánh
Gioan Tẩy
Giả cũng là cái chết vì công lý. Đó là tiếng chuông cảnh báo về tình trạng sa sút
đạo
đức của xã hội loài người, là tiếng kêu tỉnh thức những tâm hồn mê muội, là lời thúc giục sám hối và tin yêu
“vì Nước
Trời đã đến gần” (Mt
3:2; Mt 4:17). Ngày nay, lời thúc giục đó
càng cấp
thiết hơn bao giờ hết.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin tha thứ và hoán cải chúng con kịp trong Giờ Thương Xót của Ngài.
Xin ban thêm lòng can đảm và
thúc giục chúng con bảo vệ chân lý và công lý. Lạy Chúa, xin mau phù trợ! (Tv 40:14; Tv 70:2). Lạy
Thánh Gioan Tẩy Giả, xin
thương cầu thay nguyện giúp và đồng hành với chúng con trên hành trình đức tin nhiều mưu
ma chước quỷ này.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ
duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|