ĐỨC MẸ TRỌN
ĐỜI ĐỒNG TRINH
Từ khi nhiều người cam kết
soạn thảo bài tường thuật liên quan sự
đồng trinh trọn đời của Đức Maria
– và của các tu sĩ, tôi cũng quyết định viết,
sau khi thu thập mọi thứ chính xác, theo trật tự,
để bạn “nhận thức được rằng
giáo huấn đã học hỏi thật là vững chắc”
(x. Lc 1:1-4) về hai chủ đề liên quan. Đó là vấn
đề Đức Mẹ trọn đời đồng
trinh và các tu sĩ của Chúa Giêsu. Hai chủ đề này
có vẻ có vài từ ngữ không đồng thuận.
ĐỨC MẸ GẶP SỨ THẦN
Chúng ta trực tiếp tìm hiểu
Kinh Thánh. Qua Phúc Âm theo Thánh Luca, chúng ta
được biết rằng
Sứ Thần Gáp-ri-en được sai đến với một phụ
nữ trẻ, và chúng ta biết được 4 điều lạ
lùng. Thứ nhất, đó là
một trinh nữ – tiếng Hy Lạp là παρθένος
(parthenos). Đức Mẹ là
trinh nữ được
tiên báo: “Vì vậy,
chính Chúa Thượng
sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này
đây người
thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và
đặt tên là
Em-ma-nu-en” (Is 7:14). Một số người nói rằng từ ngữ được dùng
trong Is 7:14 là עַלְמָה (“almah”, tiếng Do Thái) và có nghĩa là “trinh nữ”, nhưng Bản Bảy Mươi Hy Lạp là Kinh Thánh được dùng trong thời Chúa Giêsu
(và vẫn
dùng trong Công giáo và Chính Thống giáo ngày nay) lại dùng chữ παρθένος.
Thứ hai, cuộc gặp gỡ
kỳ lạ, thiên thần chào trinh nữ bằng cách nói
khiến Đức
Maria “bối rối” (Lc 1:29): χαῖρε
κεχαριτωμένη
(Chaire Kecharitomene) – nghĩa là “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy
ân sủng”. Đây là thời điểm duy nhất
trong toàn bộ Kinh Thánh có
người
được chào cao trọng như vậy. Tuy
nhiên, lời đó không
được
dùng như một cách diễn tả mà bằng tên. Nhưng thực sự thiên thần không gọi Đức Mẹ bằng tên gọi Μαρία (Maria), như trong câu 31, mà thiên thần gọi Đức Mẹ là “Đấng đầy ân
sủng”, như trong câu 28.
Theo chú thích về từ ngữ χαῖρε
κεχαριτωμένη thì đó là một động từ, là “phân từ thụ động của thì quá khứ hoàn thành”
ở dạng “số ít giống cái chỉ định”.
Trên website www.kecharitomene.com, một tác giả khuyết danh giải thích rằng “Đấng Đầy Ân Sủng” được dịch từ chữ
kecharitōmĕnē – phân từ thụ động của
động từ charitŏō. Điều đó chứng tỏ rằng người đó đã là và vẫn là đối tượng của
lòng nhân từ của Thiên Chúa,
người
đó đã được và vẫn được Thiên Chúa quý mến, người đó đã được ơn siêu nhiên và vẫn ở trong tình
trạng ân sủng đó.
Thứ ba, lời đáp lại của Đức Maria: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ
chồng!” (Lc 1:34). Điều này cho
chúng ta biết
rằng Đức Mẹ thực sự là một trinh nữ vào
lúc được
thiên thần truyền tin.
Thứ bốn, thiên thần giải thích vai
trò của
Chúa Thánh Thần và kết luận: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc
1:37).
ĐỨC MẸ HOÀN TẤT LỜI TIÊN TRI
Đức Mẹ thụ thai không là trường hợp đầu tiên do sự can thiệp của Thiên Chúa. Thật vậy, có ít nhất 5 phụ nữ trong
thời Cựu Ước đã không
có con, gọi
là son sẻ:
◾ Sara –
vợ của Ápraham. Sara vô sinh nhưng lại mang thai lúc 90 tuổi nhờ quyền năng Thiên Chúa. Đứa con sinh ra là Isaac.
◾ Rêbêca
– vợ của
Isaac, con dâu của ông Ápraham và bà Sara. Rêbêca rất đẹp và còn trinh. Lúc kết hôn với Rêbêca, Isaac 40 tuổi. Isaac cầu xin Chúa thay cho vợ, vì vợ vô sinh. Chúa đã lắng nghe, Rêbêca mang thai và sinh đôi Êsau và Giacóp.
◾ Rakhen
– vợ của Giacóp. Giống như Sara và
Rêbêca, Rakhen cũng không thể sinh con. Rakhen đau khổ lắm, và rất khao khát có
con, đến
nỗi bà hét to xin Giacóp: “Cho em có con không thì
em chết
mất”. Giacóp nổi nóng: “Anh có thể thay Chúa được sao?”. Thật đau khổ khi không có con, vì phụ nữ mất thế giá trong cộng đồng. Nhưng Thiên Chúa đã thương xót, cho bà sinh con
trai, đặt
tên là Giuse. Bà xin thêm đứa nữa, và bà cũng toại nguyện, đặt tên con trai là Bengiamin, nhưng bà chết khi sinh đứa con
này.
Ba trường hợp này rất quan trọng. Theo Tikva Frymer-Kensky
đề cập trong bài viết về Rakhen: “Vô sinh có hai hệ lụy: Làm nổi bật kịch tính của việc sinh con, đánh dấu đặc biệt về Isaac, Giacóp, và Giuse; và nhấn mạnh rằng thụ
thai là việc làm của Thiên Chúa”.
Trong Cựu Ước còn có 2 phụ nữ nữa không có con. Một phụ nữ vô danh, chỉ biết là mẹ của Samson. Thiên thần của Đức Chúa hiện ra với bà
và nói: “Mặc dù bà son sẻ, không có con, nhưng bà sẽ thụ thai và sinh con trai”. Một phụ nữ khác là Hanna, vợ của Enkana; bà
xin Chúa “hết
năm này qua năm khác” cho bà có con. Cuối cùng, sau những tháng ngày
khóc lóc đau khổ, lời cầu của bà
được
đáp lại. Bà sinh
con trai là Samuel.
Trong Tân Ước, phụ nữ son sẻ
duy nhất được đề cập là bà Êlidabet, vợ của thượng tế Dacaria. Rồi
bà sinh con trai là Gioan Tẩy Giả, người
cao trọng nhất, đi trước để dọn
đường cho Chúa Giêsu.
Bây giờ là Đức Maria, hiền thê của bác thợ mộc Giuse. Đức
Maria là một trinh nữ, thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, là
người
hoàn tất lời tiên tri của ngôn sứ Isaia: “Này
đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ
con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is
7:14; Mt 1:23). Mọi
trường hợp thụ thai trước là bình thường – có sự kết hợp của
“người nam và
người
nữ” khi trở nên “một xương một
thịt”.
Nhưng với Đức Maria thì hoàn toàn khác lạ, như thiên thần đã xác định: “Thánh Thần sẽ ngự xuống
trên bà, và quyền năng Đấng Tối
Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi
là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35).
ĐỨC MARIA VÀ ĐỨC GIUSE
Mt 1:18-25 cho biết: Sau đây là gốc tích
Đức
Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse.
Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người
công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định
tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông
đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo
mộng cho ông rằng: “Này ông
Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải
đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ
cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc
này đã xảy ra để ứng nghiệm lời
xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ
sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người
ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là
“Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm
như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông
không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một
con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.
Thời Chúa Giêsu, các
cuộc hôn nhân của người Do Thái có hai giai đoạn
– đính hôn và kết hôn. Các cuộc hôn nhân ngày nay cũng thường có giai đoạn đính hôn,
nhưng không luôn như vậy, và chỉ gọi là “tìm hiểu”. Thế kỷ I, đính hôn là nghi thức hợp pháp, một người nam và một người nữ thề hứa với
nhau, mặc dù chưa sống với nhau. Giai
đoạn đính hôn kéo dài khoảng 1 năm, lúc đó người nam lo làm phòng
ở nhà cha mẹ mình để chắc chắn rằng
sẽ có một gia đình mới. Khi mọi thứ
đã sẵn sàng,
nghi thứ
kết hôn chính thức cử hành.
Đức
Giuse đang chuẩn bị như vậy thì biết tin Đức Maria mang thai.
Khác với đính hôn ngày nay, Đức Giuse lúc đó thực sự có thể làm đơn ly hôn với Đức Maria vì vấn đề không
chung thủy,
nhưng Đức Giuse đã không
làm như thế,
và rồi thiên tần can thiệp. Mặc
dù chưa kết hôn, nhưng trên danh chính ngôn thuận, Đức Giuse
đã là “chồng” của Đức Maria (c. 19) và Đức Maria đã là “vợ” của Đức
Giuse (c. 20).
Theo luật, người không chung thủy sẽ bị ném đá: “Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người
đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô trong thành và nằm với cô, thì anh em sẽ lôi cả hai ra cửa thành ấy và ném
đá, và chúng sẽ phải chết: cô gái, vì lý do ở trong thành mà đã không kêu cứu, và người đàn ông,
vì lý do đã cưỡng bức vợ người đồng
loại. Anh em phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh
em” (Đnl 22:23-24).
Nhưng Đức Giuse và Đức Maria tuân giữ luật, thế nên Đức Giuse định lặng lẽ bỏ
đi chứ không tố cáo Đức Maria. Và rồi thiên thần can thiệp: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì
người
con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:20).
SỰ ĐỘC THÂN CỦA ĐỨC GIUSE
Có hai cách để biết Đức
Giuse không “đụng chạm” Đức Maria – ngay cả sau khi sinh Chúa
Giêsu. Trong bài “The Perpetual Virginity of Mary”, tu sĩ Anthony Opisso,
M.D., đề
cập từ ngữ Hy Lạp trong Phúc Âm theo Thánh Mátthêu: “Thiên thần không dùng cụm từ chỉ hôn nhân ‘đến với nhau’ hoặc
‘thành hôn’, mà chỉ dùng chữ có nghĩa
là đưa nàng về nhà với danh nghĩa là người vợ (paralambano gunaika) nhưng không ở chung với nàng”.
Tu sĩ Anthony nói thêm:
“Khi thiên thần cho Giuse biết rằng Maria thực sự là Hiền Thê của Chúa Thánh Thần, Giuse có
thể
đón nhận Maria, hôn thê của mình, về nhà làm vợ, nhưng không bao giờ làm chuyện vợ chồng vì luật đã cấm”.
Tại sao luật cấm?
Tu sĩ Anthony giải thích:
“Chúng ta phải
cân nhắc rằng khi Đức Maria được
sứ thần Gáprien báo tin thụ thai và sinh con, đặt tên là
Giêsu (Lc 1:31), sứ thần cũng nói thêm
rằng đó là quyền phép của Đấng Tối
Cao sẽ rợp bóng trên Đức Maria; do đó, Đấng Thánh sinh
ra sẽ
được gọi là Con
Thiên Chúa (Lc 1:35). Khi nói vậy, sứ thần tuyên bố với Đức Maria rằng Thiên Chúa sẽ ở trong mối quan hệ hôn nhân với Đức Maria, làm cho Đức Maria thụ thai. Đức Giuse hiểu
rằng Đức Maria là Hiền Thê của Chúa Thánh
Thần. Đức
Giuse là người bảo vệ của Đức
Maria và là dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Ngay cả ông Môsê cũng đòi buộc nam giới phải “sẵn sàng cho ngày thứ ba mà đừng gần phụ nữ” khi Thiên Chúa cho ông biết kế hoạch của
Ngài là “hiện ra Núi Sinai
trước
mặt mọi người”. Truyền thống Do Thái nói rằng “mặc dù người ta phải kiêng
cữ gần vợ
ba ngày trước khi được mặc khải trên Núi Sinai (Xh 19:15), Môsê vẫn quyết định
kiêng cữ suốt đời theo ý muốn của Thiên Chúa.
Các ráp-bi giải
thích rằng đó là vì
Môsê biết
mình được giao trách nhiệm giao tiếp với Thiên Chúa, không chỉ trên Núi
Sinai mà còn trong suốt 40 năm đi qua sa mạc”.
LỜI XIN VÂNG TRINH TIẾT
Đức Mẹ tinh tuyền
trong ý muốn và tâm hồn, cùng với cả cung lòng,
nên Đức
Mẹ trả lời: “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Đức Mẹ biết rõ việc mang thai có ý nghĩa
gì đối
với một phụ nữ không kết hôn, nhưng là hành động của đức
tin và đức mến dành cho
Thiên Chúa mà Đức Mẹ đã xin vâng. Phản ứng của Đức
Mẹ đối với Chúa Thánh
Thần là Đức Mẹ hướng ra bên ngoài: “Bà Maria vội vã lên đường, đến miền
núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét” (Lc
1:39-40). Bà Êlidabet chia sẻ: “Tai tôi
vừa
nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui
sướng” (Lc
1:44). Và Đức
Maria cũng hân hoan sung sướng chúc tụng Thiên Chúa
qua bài Magnificat (Lc 1:46-55).
Trong Cựu Ước, Luật
Chúa được Môsê khắc vào hai bản đá làm giao ước với dân. Với ông Nô-ê, Thiên Chúa truyền lệnh làm con tàu theo kích thước đặc biệt:
chiều dài một trăm năm
mươi thước, chiều rộng hai mươi
lăm thước, chiều cao mười lăm thước
(St 6:15), và đem theo những thứ cần thiết
theo ý Chúa. Và rồi cung lòng Đức Mẹ cũng mang Ngôi Lời Làm
Người,
Đấng Cứu Độ cần thiết cho nhân loại.
CYNTHIA
TRAINQUE
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ
CatholicExchange.com)
Kính mừng Thánh Mẫu Mông Triệu – 2019
|