ĐỨC TIN – VẤN
ĐỀ CỦA TÌNH
CẢM
HAY LÝ TRÍ ?
Đức
tin được là niềm tín thác vào Đức Giêsu Kitô. Đức tin cũng được coi là một dạng kiến thức – tức là tin
những điều gì
đó, như tin có sự
sống lại của người chết hoặc sự
cần thiết của Bí tích Thánh Tẩy.
Đối
với chúng ta, các tín nhân muốn nghĩ về niềm tin và hiểu biết hơn về đức tin,
có vẻ có sự lầm lẫn cần làm
cho rõ ràng. Đa số có
nguyên nhân từ các trường hợp thuộc lịch sử. Khi
ly khai với Giáo Hội,
Martin Luther đã không đặt nặng vấn đề đức
tin là niềm tin cá
nhân. Ông muốn đức tin
làm công việc của
những gì người
Công giáo hiểu đúng
đắn là
đức cậy và
đức mến. Đối
với ông, đó là tất
cả đức tin – một cách kết hợp nguy hiểm về các
nhân đức đối thần,
trở thành sai lầm
nghiêm trọng của sự
cải cách.
Về
phương diện Công giáo, cách định nghĩa của Thánh
Thomas Tiến Sĩ về
đức tin có vẻ
theo chiều ngược lại, với cách
hiểu đức tin là sự hiểu biết. Ở đây
đức tin được
định nghĩa là hành vi của trí tuệ thuận theo sự thật thuộc
về chuyển động của ý chí, chính nó được di chuyển bằng ơn Chúa.
Đó vẫn là
cách định nghĩa cổ
điển về đức tin từ nhiều thế kỷ,
và cũng là cách mà Bách Khoa Công Giáo đã định nghĩa về điều đó. Nhưng
từ Công Đồng Vatican II, nó trở nên rất phổ biến trong giới Công
giáo khi nói về đức tin
trong mối quan hệ với Đức Kitô.
Một
số câu Kinh Thánh có vẻ ủng
hộ quan điểm trí tuệ về chính đức tin. Có lẽ nổi tiếng nhất là câu
của Thánh Giacôbê: “Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế,
và chúng run sợ.” (Gc 2:19) Ngoài ra, cũng có các câu
kinh điển như câu
này: “Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời.” (Ga
3:16)
Vậy
đức tin có phải
là niềm tin cá
nhân hoặc trí tuệ thuận theo sự thật được
thiên khải? Có lẽ là cả
hai.
Thứ
nhất, chúng ta làm rõ những điểm chính.
Đối với phạm
vi mà người Công
giáo chúng ta có thể xác
định đức tin
là niềm tin cá
nhân, không có nghĩa là chúng ta chấp
nhận cách hiểu
của Luther về đức tin là gộp chung cả hai nhân
đức đối thần
khác. Phải loại bỏ
cách hiểu méo mó
này của Luther.
Thứ
nhì, mặc dù có
cách hiểu trí tuệ hơn, vẫn cần nói
rõ: đức tin của chúng
ta ở trong con người cao hơn hết,
không là một ý tưởng, một nguyên tắc, hoặc một vật. Chúng
ta tin vào chính Thiên Chúa, Đấng
đã mặc khải chính
Ngài một cách
trọn vẹn nhất nơi một
Con Người – Đức Giêsu Kitô. Tương tự, điều này có nghĩa là
chúng ta cũng tin những
điều Ngài dạy
chúng ta. Do đó đức
tin bao gồm việc đồng thuận với những
điều xác định,
bắt đầu với những điều trong kinh Tin Kính về Phép Rửa và sự sống đời đời. Cho nên mặc dù chúng ta nhấn mạnh phương diện cá
nhân, nó vẫn đòi hỏi lý trí.
Rất
đáng lưu ý rằng
Thánh TS Thomas Aquinas xác định
vấn đề này. Nhưng chúng ta vẫn phải trả lời vấn đề
quan trọng của chúng ta: Làm sao đức tin có thể vừa là sự hiểu biết vừa là sự tin tưởng?
Chúng ta có cách giải quyết đúng khi vấn đề có vẻ bắt đầu. Xem lại cách
định nghĩa cổ
điển của Công giáo về đức tin làm
cho nó có vẻ liên
quan trí tuệ. Thánh
Thomas thực sự xác
định đó là
hành vi của lý
trí. Nhưng chúng ta hãy đọc
kỹ lưỡng và cẩn
thận hơn: Đức tin là hành vi của lý trí đồng thuận với sự thật thuộc
về chuyển động của ý chí, chính nó được di chuyển nhờ ân sủng của Thiên Chúa.
Thứ
nhất, cần biết rằng chúng ta có quy trình riêng
khi làm việc. Theo định
nghĩa đó, chính Thiên Chúa tác động trong chúng ta bằng ân sủng của Ngài. Thứ nhì, ân sủng di chuyển ý chí tự do, ý chí này di chuyển trí tuệ tới hành vi đồng thuận. Như vậy đức
tin cũng liên quan ý chí theo cách này.
Hơn nữa,
điều này có nghĩa là đức tin có mối quan hệ đặc biệt với
đức cậy. Theo một nghĩa nào
đó, đức tin liên
quan trí tuệ mà hy
vọng liên quan ý chí. Đức tin là tin những gì không thấy, như Thánh Phaolô nói: “Chúng ta
tiến bước nhờ
lòng tin chứ
không phải nhờ
được thấy Chúa.” (2
Cr 5:7). Trong lĩnh vực
ý chí, nhân đức
kèm theo là đức
cậy. Bởi vì Thánh Thomas cho biết: “Người ta không
hy vọng điều người
ta đã có, mà hy vọng điều người ta chưa có.”
Mối
quan hệ thân thiết
này được
phản ánh trong công thức
cổ điển: “Đức tin là bảo đảm cho những điều
ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta
không thấy.” (Dt 11:1) Theo Thánh Thomas, điều này có nghĩa là đức tin “bao gồm mọi điều chúng
ta hy vọng.” Nói
cách khác, nhờ đức tin mà
chúng ta biết rằng Đức
Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng
Cứu Độ, và chúng ta được tiền định để hưởng
hạnh phúc đời
đời. Chúng ta cũng bắt đầu hy vọng những điều
này. Nhưng trước
tiên chúng ta phải biết
những điều đó. Mặt khác, làm sao chúng ta có thể hy vọng các điều đó? (Đó là điều mà Thánh Thomas đã đề cập trên đây).
Niềm
tin cũng là bản
chất của niềm hy vọng không chỉ trong ý nghĩa đó mà còn
bao gồm nội dung của
sự hy vọng. Hiểu niềm tin là sự hiểu biết cũng có nghĩa
là niềm hy vọng như
vậy có nền tảng vững
chắc. Hy vọng không có niềm tin sẽ rất yếu, hầu như
là thực sự vô vọng. Nếu tôi bị mất phương hướng ngoài biển khơi và tôi chưa bao giờ nghe nói tới người cứu hộ, nhưng
tôi vẫn hy vọng
được cứu, người ta có thể nói rằng niềm hy vọng của tôi là
ảo tưởng, vô
ích. Nhưng nếu tôi
đã nghe nói tới người
cứu hộ thì niềm
hy vọng của tôi có nền
tảng hợp lý – hoặc
có thể nói là
“bản chất” nào
đó.
Đó là lý do rất quan trọng mà chúng ta duy trì
cách hiểu cổ điển
về đức tin như sự hiểu biết. Cách
này nhắc chúng
ta rằng đức tin
liên quan các sự thật
khách quan mà chúng ta có thể
tin bằng sự hiểu biết và sự hiểu biết đáng
tin này bênh vực niềm hy vọng
của chúng ta. Nếu
chúng ta loại bỏ cách
định nghĩa này,
cách hiểu của chúng
ta về đức tin có
nguy cơ trở thành
quá chủ quan.
Dĩ nhiên, chúng ta không muốn làm nổi bật mối quan hệ của
đức tin với sự thật khách
quan quá mức đến nỗi
chúng ta quên yếu tố chủ
quan hoặc cá nhân. Cách định nghĩa cổ điển tránh
cái bẫy này bằng cách hợp tác với yếu tố tin tưởng cá
nhân nhưng theo mức độ
riêng – để nhận
biết rằng đó là ý chí di chuyển trí tuệ và ý chí được Thiên Chúa di chuyển. Vì “mối quan hệ” này với ý chí, đức tin cũng tác động với đức mến và qua
đức mến, một
nhân đức đối
thần khác, kết
hợp với ý chí, ngoài đức cậy.
Theo ý nghĩa nào đó, mối quan hệ này theo kiểu mối quan hệ giữa đức
tin và đức cậy. Chúng
ta cần đức tin
để hy vọng đúng đắn, thế nên đức tin cũng “đến trước”
theo nghĩa mà chúng ta cần hành vi của đức tin để “biết” cái gì
đó mà yêu thương. Thánh Thomas cho biết: “Ý chí cần có trước khi tin, nhưng không
phải là ý
chí được đức
ái thúc đẩy.
Hành vi sau giả
định là niềm
tin, bởi vì ý chí không thể hướng về Thiên
Chúa với tình
yêu hoàn hảo, trừ phi trí tuệ sở hữu niềm tin đúng
đắn về Ngài.”
Thế
nhưng đức tin được “thúc
đẩy” nhờ đức
mến – có thể
nói rằng đức tin
phát triển mạnh mẽ
trong đức mến. Thánh Thomas viết: “Đức ái
được so với
nền tảng hoặc cội rễ mà các
nhân đức khác
thu hút dưỡng chất
từ đó.”
Thánh Thomas nói rằng tình yêu hình thành và làm
hoàn hảo niềm tin. Bằng
cách “định dạng”
đức tin, đức ái hướng tới tận cùng,
đó là kết hiệp với
Thiên Chúa. (“Hoàn hảo”
ở đây có nghĩa là hoàn hảo theo nghĩa làm cho cái gì đó
thành hoàn toàn và hoàn tất).
Bây giờ
chúng ta đã đi xa vấn
đề chính. Chúng ta hãy trở lại: Đức tin là
hành vi của ý chí
đồng thuận với
sự thật của Thiên Chúa. Nhưng sự đồng thuận này
được di chuyển nhờ
ý chí, nhẹ nhàng
nhích tới bằng ân sủng của Thiên Chúa. Thế nên có yếu tố tin tưởng cá
nhân trong cách hiểu truyền
thống cho rằng đức tin là hành vi của trí tuệ.
Tuy nhiên, hãy bỏ qua vấn đề trí tuệ, và đức tin mất tính khách quan của nó như sự hiểu biết vững vàng.
Điều này ảnh hưởng đức cậy và
đức mến. Giống
như những nốt nhạc, đức tin, đức cậy,
và đức mến phải
được hiểu rạch ròi để biết cách chúng hoạt động rất hài
hòa với nhau mà sản sinh sự hài hòa tuyệt vời này của linh hồn, và chúng ta gọi đó là sự cứu độ.
STEPHEN BEALE
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ
CatholicExchange.com)
Đêm 16-7-2019
|