MẶC KHẢI THÁNH TÂM CHÚA
Chúa Giêsu mặc khải cho Thánh Margaret Maria
Alacoque, nữ tu Dòng
Thăm Viếng (The Visitation
Order), biết điều này: “Ta sẽ điều chỉnh ân sủng của Ta theo tinh thần Luật Dòng của con, và Ta muốn con ưu tiên Luật Dòng hơn mọi thứ khác”.
Thánh Margaret Maria Alacoque (1647-1690) được biết đến là một nữ tu được mặc khải
những điều giúp phổ biến lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa
Giêsu. Không thể bác bỏ nền tảng Kinh Thánh
và giáo lý thời Trung Cổ, có thể nói rằng hình thức sùng kính ở Tây phương ngày nay khởi đầu phát triển từ thị kiến của Thánh
Margaret Maria Alacoque. Nói cách khác, người nữ tu hèn mọn của thành phố Paray-le-Monial (Pháp) đã giúp làm
cho lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa trở
nên thành phần văn hóa của Giáo Hội Công giáo, không chỉ sùng kính riêng mà còn phổ biến, đặc biệt là với lễ trọng trong Phụng Vụ.
Có ít nhất
16 nhà thờ trong số rất
nhiều nhà thờ
Công giáo dâng kính Thánh Tâm Chúa – từ Istanbul tới Paris, Lisbon, Nam Bend,
Pondicherry, India – được xếp loại là Vương
Cung Thánh Đường
(Basilica). Hiếm khi kinh nghiệm thần bí cá
nhân được Giáo Hội công nhận là đáng tin. Càng hiếm hơn với các mặc khải tư như vậy được
công nhận hầu như
toàn cầu. Để hiểu
thị kiến của Thánh Margaret Maria Alacoque
có ảnh hưởng nhiều như
thế nào, chúng ta phải
biết hoàn cảnh
của thánh nữ
hồi thế kỷ XVII ở Pháp, chú ý ba lĩnh vực: sự phát triển của sự khắc khổ, tầm
quan trọng của sự thần bí, và sự phát triển của Dòng Thăm Viếng.
Đa số
tinh thần Công giáo Pháp chấp nhận sự khổ chế hồi
thế kỷ XVII. Sự nổi dậy của phong trào
Jansen (*) tại Pháp –
như được phác họa bởi nét riêng về giáo lý, văn bản, con người, và tổ chức – đã trở nên “dạng cấp tốc” cho câu
truyện này,
nhưng không là tất cả câu
truyện. Để hiểu
hoàn cảnh này,
cách định nghĩa lỏng
lẻo về thuyết khổ chế là dạng “phong vũ biểu” hữu dụng
hơn lời nói, sự
tham gia chính thức vào
thuyết Jansen về ân sủng. Sự khổ chế mới của
Công giáo thời kỳ
đầu biểu hiện rõ ràng nhất trong các phương pháp mục vụ đối với bí
tích Hòa Giải và
Thánh Thể. Các
linh mục sống khổ
chế thường quen từ chối tha thứ, cho rằng
một số hối nhân chưa thể hiện đủ mức sám hối ăn năn. Họ cũng gay gắt
với việc rước lễ thường xuyên,
cho rằng ít người chuẩn bị xứng đáng.
Điều này
làm cho những người
theo khổ chế thẳng thừng phản đối đa
số các tu sĩ Dòng Tên, những
người mạnh mẽ thúc đẩy việc xưng tội và rước lễ thường xuyên,
và họ cố gắng
làm điều đó.
Lúc đó, tà thuyết Jansen xuất
hiện vào khoảng
năm 1640, các cuộc
tranh luận trong Giáo Hội
Pháp đã sinh ra nhiều
chức vụ, và vấn
đề chính đi xa hơn về phương diện khổ chế.
Đối
với những người phản đối việc khổ
chế, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa như viên đạn bắn vào tay. Thánh Margaret Maria
Alacoque mô tả Thánh
Tâm Chúa Giêsu là “nguồn mạch
vô tận có ba
nhánh không ngừng tuôn
trào”, nhánh thứ nhất là
“nhánh thương xót, tuôn chảy
xuống các tội
nhân”. Chúa Giêsu đã thông ban cho tình yêu dạt dào của bà: “Thánh Tâm Ta đắm đuối trong tình
yêu thương dành cho nhân loại, đặc biệt là
dành cho con, bên trong Thánh Tâm Ta có những ngọn lửa yêu thương”. Hơn
nữa, tình yêu thương xót
này được suy niệm qua
các bí tích, bao gồm
việc rước lễ thường xuyên.
Các thị kiến chính của Thánh Margaret Maria Alacoque xảy ra khi bà đang cầu nguyện trước Thánh
Thể, và Chúa Giêsu yêu cầu bà “rước lễ thường xuyên như
đức vâng lời cho phép”. Công giáo mặc khải cho biết hãy rước lễ vào các ngày Thứ Sáu và ngày Lễ Thánh Tâm, ngay sau Lễ Mình Máu Thánh (Corpus Christi). Không ngẫu nhiên mà Dòng Tên thúc đẩy lòng sùng kính này, bắt đầu với Thánh
Claude de la Colombière – vị linh
hướng của Thánh Margaret Maria Alacoque.
Để
hiểu lý do các cuộc
thị kiến này được chấp nhận bởi những người
bảo trợ, chúng ta phải
đặt vào hoàn cảnh
của sự thần bí tại
Pháp lúc đó. Như trong mọi
thời đại, kinh nghiệm thần bí
không bảo đảm tính
chính thống hoặc tính
thánh thiêng. Nhiều nhà thần bí nổi tiếng đã để lại các tài liệu không rõ ràng, qua các bài viết được Giáo Hội chấp thuận hoặc bị kết
án. Những người
khác thấy tác phẩm của mình nằm trong số các sách bị cấm và thậm chí còn bị kết án là tà thuyết. Giáo lý tâm linh của Jean-Joseph Surin – một nhà thần bí linh mục Dòng Tên, làm việc trừ tà, coi mình là “vật chứa” cho ma quỷ và bị ám ảnh
nhiều năm, bị chứng tâm thần, hoặc bị cả hai – rồi bị
đưa vào số
sách cấm sau khi ông
chết.
Có thể
nhà thần bí bị kết án nổi tiếng nhất hồi đó là
bà Guyon, người cùng
thời với Thánh
Margaret Maria Alacoque, và là người
chủ trương sống tĩnh lặng. Hai phụ nữ
này tương phản
với nhau về nhiều điểm, quan trọng nhất
là thái độ của họ
đối với Ngôi Lời Nhập Thể. Chủ trương
sống tĩnh lặng của bà muốn đạt tới Thiên
Chúa trực tiếp về
tâm linh, không cần
hoặc ít cần tới Ngôi
Con là Chúa Giêsu Kitô. Bà tuyên bố
rằng các thị
kiến của bà “không của
Thiên Chúa, và hầu như không của Chúa Giêsu”, mà là “thị kiến thấu hiểu”, thị kiến
về “thiên thần
ánh sáng… thể hiện
đối với linh hồn”. Có dịp phê bình về kinh nghiệm thần bí của Thánh Margaret Maria Alacoque,
bà Guyon gọi đó là
“tình cảm tinh thần” vì quá
trần tục, tập trung vào
cái gì đó về xác thể như Thánh Tâm Chúa Giêsu. Quan tâm
Giáo Hội là lời biện hộ của bà
Guyon về “sự dửng
dưng” đối với Ơn Cứu Độ.
Theo bà Guyon, tình yêu thuần khiết của Thiên
Chúa “bất vụ lợi”
về điều tốt lành, thậm chí không muốn sống với Thiên
Chúa trong cõi đời đời.
Ngược lại, Thánh Margaret Maria Alacoque nhấn mạnh lòng ước muốn hỗ tương về mối
quan hệ yêu thương vĩnh hằng giữa Thiên-Chúa-làm-người với mỗi con người. Đức
ông Ronald Knox đã từng
mô tả sự khổ
chế là “điều sai lầm
của một số linh hồn thiếu thận trọng”,
họ có ý tốt nhưng rốt
cuộc lại là “sai lầm”.
Trong lúc xung động về tâm
linh Công giáo, sai lầm là
điều khó
tránh khỏi, và
Giáo Hội đã tìm
thấy nơi Thánh
Tâm Chúa những điều mặc
khải cần thiết để sửa sai.
Cuối
cùng, theo mức độ
cá nhân, hoàn cảnh mặc
khải lúc đó của Thánh Margaret Maria Alacoque
là một nữ tu Dòng
Thăm Viếng. Dòng
này sống theo tinh thần
dịu hiền và nhân hậu
của các vị sáng lập, Thánh Francis de Sales và Thánh
Jane Frances de Chantal. Không ngẫu
nhiên mà hình ảnh trái
tim là thành phần của con
đường tâm linh. Có lần Thánh Francis de Sales đã
mô tả lời cầu
nguyện bằng câu “trái tim nói với trái tim”. Nói cách khác, trái
tim của linh hồn
đối thoại yêu thương với chính Trái Tim của Thiên Chúa. Trong một lúc nhiệt thành không thể kiềm chế (về sau Thánh
Francis de Sales đã trách Thánh Jane Frances de Chantal về điều này), Thánh Jane
Frances de Chantal đã dùng thanh sắt
nóng khắc Thánh
Danh Giêsu lên ngực bà.
Trong những năm đầu
mới lập dòng, Thánh Francis de Sales viết cho Thánh Jane Frances de Chantal: “Dòng
nhỏ của chúng
ta thực sự là
công việc của Thánh
Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Đức
Maria. Đấng Cứu Độ đã
khai sinh cho chúng ta qua cửa
ngõ của Thánh
Tâm Chúa”.
Khi đón nhận Thánh Tâm Chúa Giêsu theo cách
này, Thánh Francis de Sales và Thánh Jane Frances de Chantal chỉ làm theo truyền thống có trong Kinh Thánh (đặc biệt là Ga 19:34-37), các giáo phụ, và những người thời Trung Cổ. Lòng
sùng kính Thánh Tâm khá độc
lập của Thánh Margaret Maria Alacoque. Nhưng các thị kiến của bà làm
nổi bật truyền thống sùng
kính Thánh Tâm Chúa, xác định
rằng có sự ủng
hộ của Thiên Chúa, và cụ thể hóa bằng các việc thực hành của lòng sùng kính. Mới đầu người ta không dễ chấp nhận các mặc khải, và nhiều tu sĩ Dòng Thăm Viếng cũng tỏ ra “thận trọng”
với kinh nghiệm thần bí của bà. Qua thời gian, và với sự hỗ trợ của Thánh
Claude de la Colombière, cộng
đồng Paray đã vượt qua và lòng sùng kính Thánh Tâm
Chúa, như Thánh Margaret Maria Alacoque đã mô tả, được phát
triển qua mạng lưới các tu
viện của Dòng
Thăm Viếng tại Pháp. Từ đó, lòng sùng kính này phát
triển tới các
giáo sĩ, tu sĩ, và giáo dân, đặc biệt là nhờ sự bảo trợ của Dòng
Tên.
Tóm lại,
lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu ở dạng này đã phát triển vì được coi là đúng với truyền thống tâm
linh Công giáo và vì nó làm nổi
bật những gì tốt
nhất trong truyền thống. Nó đúng đối với lòng nhiệt thành của những người sống khắc
khổ và sống tĩnh lặng,
nó đưa ra dạng
xác định đối
với việc nhập thể, từ lòng
sùng kính Thánh Thể tới lòng
sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu có nguồn
gốc từ các bản
văn của Kitô giáo thời
sơ khai trong Phúc Âm theo Thánh Gioan. Thời gian đã chứng tỏ đúng để phát triển lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa.
Nhưng khi thế giới được
chuẩn bị cho Phúc Âm, Ngôi Lời đã chờ đợi sự đồng ý của một phụ nữ trẻ trước
khi chấp nhận một trái tim con người. Hầu như các thế kỷ sau đó, Thánh Tâm đã
chấp nhận đi vào
trái tim một nữ tu vô
danh của Dòng
Thăm Viếng, trước
khi được đón nhận vào trái tim Giáo Hội hoàn vũ.
CHRISTOPHER J. LANE
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ
CrisisMagazine.com)
Tháng Sáu – 2019
(*) JANSENISM – Thuyết của thần học gia Công
giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng
1656-1657, dựa trên thuyết
tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen
nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận
ý chí tự do, cho rằng bản
chất con người hư hỏng, không
thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người
được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị những người cải cách
trong giới giáo sĩ,
tu sĩ và học giả Công
giáo Âu châu Tây phương phản
đối, và bị
kết án là tà thuyết. Bị ảnh
hưởng các tác phẩm
của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận
tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh
Augustinô về sự tiền
định và sự
cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công
giáo La Mã coi là gần với
thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông
năm 1642. Sau khi Jansen chết
năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại tu viện ở
Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters
(1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu
lập Giáo hội
Jansen năm 1723 và tồn
tại tới cuối thế kỷ 20.
|