MÁU và
NƯỚC từ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
Trong Bữa
Tiệc Ly, tông đồ
Gioan – người môn đệ “được Chúa
Giêsu yêu quý” – đã được
tựa đầu vào Thánh Tâm Chúa Giêsu (Ga 13:23). Chỉ vài giờ sau đó, ở bên chân Thập Giá, Gioan lại là người chứng kiến Thánh
Tâm Chúa Giêsu bị đâm
thâu. Thánh Gioan xác định
rõ ràng: “Một
người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu
cùng nước chảy
ra” (Ga 19:34). Các
giáo phụ thời kỳ
đầu đã hiểu
Máu và Nước đó
theo nghĩa bí tích, là Máu trong Bí tích Thánh Thể và Nước trong Bí tích Thánh Tẩy. Các Bí Tích và Giáo Hội phát sinh từ vết thương nơi Thánh
Tâm Chúa Giêsu. Thánh Augustinô liên tưởng rằng Bà Eva được tạo nên từ chiếc xương sườn của
Ông Adam khi ông chìm vào “giấc
ngủ mê” (St 2:21).
Giáo Hội
cũng vậy, Giáo Hội
được phát sinh từ
cạnh nương long của Đức Kitô và
là Hiền Thê của Ngài. Nhờ Nước trong Bí
tích Rửa Tội và Máu
trong Bí tích Thánh Thể mà
Giáo Hội được
sinh ra và được duy trì.
Giáo Hội tôn
kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, bởi
vì “Ngài cho phép tội
lỗi của chúng ta đâm thâu Thánh Tâm Ngài”, là biểu tượng của Thánh
Tình dành cho nhân loại (GLCG số
2669).
Thông điệp “Haurietis Aquas” (Hân
Hoan Múc Nước) năm 1956, nói về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, mở đầu bằng câu
trích dẫn sách
ngôn sứ Isaia về nước
ban sự sống của Đấng Mêsia
chịu đau khổ. Ngôn sứ Isaiah nói: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ” (Is 12:3) và “đến cả đi, hỡi những người
đang khát, nước đã sẵn đây!” (Is
55:1). Các ngôn sứ khác –
như Giôen, Êdêkien, và Dacaria – cũng nói về loại nước này của Đấng Cứu Độ. Chính
Chúa Giêsu trích dẫn lời các
tiên tri nói rằng từ nơi
Ngài “tuôn chảy những
dòng nước hằng
sống” (Ga 7:38).
Nước
trường sinh là gì? Các giáo phụ thời Giáo Hội sơ khai đã nhận biết nước này chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu là
ân sủng từ các bí
tích. Đó là biểu
tượng về việc trao ban Chúa Thánh Thần. Nước hằng sống là nước rửa tội, qua đó
Chúa Thánh Thần thanh tẩy tội
lỗi của chúng ta và đến cư ngụ trong chúng
ta. Chúa Giêsu nói với
ông Nicôđêmô rằng
chúng ta phải được
tái sinh bởi “nước
và Thánh Thần”, cũng
như Ngài đã nói với
phụ nữ Samari tại giếng nước ngày xưa: “Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt
lên, đem lại
sự sống đời đời” (Ga 4:14).
Không phải
là ngẫu nhiên mà
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu xuất hiện trong lịch Phụng Vụ
sau Lễ Ngũ Tuần, tưởng nhớ tác phẩm của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần nhiệm xuất (proceed) từ chiều
sâu thẳm của Thánh
Tâm Chúa Giêsu. Lễ Thánh
Tâm Chúa Giêsu cũng là ngày thứ
sáu đầu tiên
trong Tuần Bát Nhật Lễ Mình Máu Chúa (Corpus
Christi), cử hành sự hiện diện thật của Mình
Máu Thánh Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Đó là điều phù hợp, bởi vì Thánh Tâm Chúa Giêsu là
thành phần trong Thánh
Thể của Ngài.
Theo nghĩa đó, khi chúng ta đón nhận Bí tích Thánh Thể, chúng ta cũng đón nhận Thánh Tâm Chúa Giêsu (Tông thư
Haurietis Aquas, số 122). Máu
tuôn trào từ Thánh
Tâm Chúa Giêsu bị đâm
thâu trên đồi Can-vê là
“Máu của giao ước
mới” mà Chúa Giêsu đã mở ra tại Bữa Tiệc Ly, chính bữa tiệc mà chúng ta tham dự mỗi thánh lễ.
Hồi
thế kỷ 17, đức tin lộn xộn, nhất là ở Pháp, khi phải xử lý cuộc Cải Cách Tin Lành và tà thuyết Gian-xen (*). Thuyết này từ chối ý muốn tự do của con người, cho
rằng chỉ những người được Thiên
Chúa tiền định mới
nhận được ơn thánh hóa. Thuyết này ngụ ý tính khắt khe luân lý, kết quả là nhiều người đã từ chối rước lễ bởi vì họ cảm thấy tội lỗi. Đó là
trái ngược với nền
tảng của thế giới quan hạn hẹp này,
giới hạn ân sủng bí tích với một số người, và rồi Chúa Giêsu đã hiện ra với Thánh Margaret Maria
Alacoque, Ngài nói: “Hãy nhìn Thánh Tâm Ta đây, Thánh Tâm Ta yêu thương
quá đỗi, đến nỗi
không còn lại
gì, thậm chí còn
kiệt quệ để
chứng minh tình yêu thương của Ta dành cho họ”.
Chúa Giêsu cho thấy rằng Ngài mở hết lòng mình, không chỉ cho một số người, mà cho
hết mọi người, và
Ngài muốn mọi người
đón nhận Thánh
Thể Ngài thường xuyên. Ngài muốn rằng ngày lễ kính Thánh Tâm Ngài được thiết lập, và mọi người sẽ rước lễ
vào các thứ sáu
đầu tháng,
đồng thời thường
xuyên làm Giờ Thánh.
Thật vậy, Chúa
Giêsu đã canh tân đời
sống Giáo Hội,
làm sống động trái
tim của các
tín hữu với việc
sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu cũng đã bày tỏ nhiều lời hứa qua Thánh nữ Margaret Mary dành cho những người tôn
sùng Thánh Tâm Ngài. Trong số
đó có lời hứa ban an bình
cho các gia đình, an ủi
họ khi gặp khó khăn, ban cho họ những ơn cần thiết, giúp họ sốt sáng hơn và hoàn thiện hơn qua đức tin, đồng
thời ghi khắc tên họ vào Thánh Tâm Ngài mãi mãi. Trong lá
thư tháng 5-1688, Thánh Margaret Mary đã viết về “Lời Hứa Quan Trọng”
mà Chúa Giêsu đã nói với
bà. Chúa Giêsu nói: “Ta hứa với con rằng tình
yêu mãnh liệt của
Ta sẽ ban cho những người rước lễ vào
các ngày thứ Sáu
đầu tháng,
trong chín tháng liên tục,
được ơn hối cải trong giờ lâm tử”. Lời
hứa tuyệt vời biết bao, nhưng chúng
ta nên nhớ rằng đây
không là “sự bảo đảm
tự động” (automatic guarantee) được vào Nước Trời (nghĩa là
đừng ảo tưởng
rằng cứ “khoán trắng”
đủ chín tháng là xong, rồi muốn sống sao cũng được
lên Thiên Đàng – chú thích của
người dịch). Chúng ta nên phân biệt với dạng mê tín
(superstition) liên quan điều
này. Lm James Kubicki, Dòng Tên, giám đốc chương trình
Tông đồ Cầu nguyện
(Apostleship of Prayer), cho biết rằng điều này
“không có phép thần thông
nhưng có hệ quả tự
nhiên trong đời
sống kết hiệp với Thánh Tâm Chúa Giêsu”. Chúng ta
không được mời gọi
mê tín dị đoan, mà
được mời gọi
sùng kính.
Lòng sùng kính Thánh Tâm được mô tả đầy đủ nhất qua lòng
tôn kính của chúng
ta đối với Giáo Hội. Máu và Nước trong Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta nên mới. Thần Khí Ngài cư ngụ trong chúng ta để trao ban sự sống đời
đời. Đây là cách hoàn tất lời tiên tri của ngôn sứ Êdêkien. Kinh Thánh cho biết: “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình
chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt, để chúng
đi theo các thánh chỉ
của Ta và tuân giữ cùng thi hành các quyết định của Ta. Lúc ấy, chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Ed
11:19-20). Trong chúng ta cũng vậy. Trái
tim của chúng
ta được thích
nghi và được tái tạo khi sùng kính Thánh Tâm Chúa
Giêsu.
Khi bị
treo trên Thập Giá,
Chúa Giêsu đã kêu lên: “Tôi khát” (Ga 19:28). Nhìn qua lăng
kính Kitô giáo, sự khát của Chúa Giêsu là khao khát cứu các linh hồn. Chúng ta có thể theo cách thực tế để an ủi Thánh
Tâm Chúa Giêsu và thỏa mãn cơn
khát của Ngài bằng cách cảnh báo đền tội và tôn sùng Thánh Tâm Ngài
(Tông thư Miserentissimus Redemptor – Đấng Cứu Chuộc Rất Yêu Thương,
số 13). Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thánh Thể biến đổi chúng
ta, những người dự
phần vào Nhiệm
Thể Đức Kitô. Chúng ta được tẩy sạch nhờ nước
ban sự sống của Chúa Giêsu, và chúng ta được biến đổi nhờ Mình
Máu Thánh Chúa. Về điều
này, Thánh Gioan tông đồ
là ví dụ điển hình,
chàng trai trẻ này
đã tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu, được nghe nhịp đập của Thánh
Tâm, và Chúa Giêsu cũng làm cho mọi
thụ tạo nên mới
như vậy.
BRIAN KRANICK
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ
CatholicExchange.com)
(*) Jansenism: Thuyết của thần học gia Công
giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên
thuyết tiền định
luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen
nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận
ý chí tự do, cho rằng
bản chất con người hư hỏng, không
thể tốt lành,
còn Chúa Kitô chỉ chết
cho những người được chọn chứ không
chết cho mọi người.
Giáo hội Công
giáo kết án
thuyết này là
lạc giáo.
Thuyết này bị những người cải cách
trong giới giáo sĩ,
tu sĩ và học giả Công
giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các
tác phẩm của thánh
Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận
tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh
Augustinô về sự tiền
định và sự
cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công
giáo La Mã coi là gần
với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông
năm 1642. Sau khi Jansen chết
năm 1638, những người theo ông
đã lập cơ sở tại
tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters
(1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này.
Những người
theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ
20.
[Đăng báo TTĐM số 498, tháng 6-2019, Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc xuất bản tạ Hoa Kỳ]
|