NỢ TÌNH
Là con người,
không ai lại không mắc nợ, dù ít hay nhiều. Có thể
không mắc nợ về vật chất nhưng ai cũng
mắc nợ về tinh thần – nợ cha mẹ, nợ anh
em, nợ bạn bè, nợ thầy cô, nợ xã hội,... Nói
chung, mắc nợ gì cũng... khổ. Món nợ càng to thì nỗi
khổ càng lớn, không an tâm, thậm chí là mất ăn mất
ngủ.
Món nợ
đơn giản nhất là nợ cá nhân – riêng giữa hai
người với nhau, món nợ cũng có thể mang tính
xã hội, mang tầm vóc quốc gia hoặc quốc tế.
Chính khách John Adams (1735-1826, tổng thống thứ nhì của
Hoa Kỳ) nói: “Có hai cách để chinh phục và nô dịch
hóa một đất nước. Cách thứ nhất là bằng
thanh kiếm. Cách thứ hai là bằng nợ nần”. Thật
là nguy hiểm với “khổ nhục kế” như thế
– không chỉ khổ mà còn nhục. Thế nên, cứ “thà lên
giường ngủ không ăn tối còn hơn thức dậy
với nợ nần” (chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, một
trong các vị khai sinh Hoa Kỳ). Tại sao vậy? Bởi
vì “người mắc nợ chẳng khác nào nô lệ” (văn
thi sĩ Ralph Waldo Emerson, 1803-1882). Nợ nần khổ thật!
Nhưng mắc
nợ vì hoàn cảnh khó khăn đã đành, đáng quan ngại
là mắc nợ vì “bóc ngắn, cắn dài” hoặc “vung tay
quá trán”. Đôi khi tự làm mình mắc nợ vì thói đua đòi
hoặc khoe mẽ, ưa bề ngoài. Đó chính là dạng mắc
nợ mà Benjamin Franklin đã cảnh báo: “Mua thứ mình không
cần rồi sẽ phải bán thứ mình cần”.
Tránh được
nợ thì lòng thanh thản. Nhưng có món nợ không tránh được,
thậm chí là nên mắc nợ nhau, đó là NỢ TÌNH, như
Thánh Phaolô nói: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ
tương thân tương ái” (Rm 13:8).
Cuộc sống
có đủ loại tình với nhiều cấp độ.
Cuộc đời không có tình yêu thì không có sức sống,
y như trái đất không có ánh nắng vậy. Tình yêu thương
như một điệp khúc của bài trường ca vô tận,
luôn được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, đến
nỗi có thể có người cảm thấy nhàm chán vì nghe
hoài, nghe mãi, nghe suốt năm phụng vụ, thậm chí nghe
hằng ngày. Cứ nghe mãi như vậy mà chúng ta vẫn chẳng
thực hiện được bao nhiêu, mặc dù Thánh Gioan
nói “nhẹ” thế này: “Các điều răn của Người
có nặng nề gì đâu” (1 Ga 5:3). Quả thật, Đạo
Chúa chỉ là một chữ Yêu, rất ngắn gọn và
đơn giản – theo Việt ngữ chỉ có 3 mẫu tự,
ấy thế mà lại nhiêu khê. Tuy nhiên, dù sao đi nữa
thì tình yêu vẫn mãi mãi vĩ đại và cao cả vô cùng!
Thật vậy,
tình yêu kỳ diệu đến nỗi đại văn hào
Victor Hugo (1802-1885, người Pháp) đã minh định: “Chết
cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Rất kỳ lạ. Chỉ
có người đã từng yêu hết lòng thì mới khả
dĩ hiểu được mà thôi. Yêu là một dạng điên,
càng yêu sâu đậm càng điên dữ dội. “Điên” ở
đây phải hiểu theo nghĩa tích cực chứ không “bệnh
hoạn” theo kiểu điên rồ!
Chúa Giêsu bảo
chúng ta phải nên hoàn thiện (Mt 5:48), yêu thương cả
kẻ thù (Mt 5:44), học nơi Ngài nhân đức hiền
lành và khiêm nhường (Mt 11:29). Nói chung, chúng ta phải nên
giống Ngài. Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.
Làm sao nhận diện? Thánh Angela Merici (1474-1540, người
Ý) cho biết: “Muốn biết một người có nên giống
Chúa Giêsu hay không, phải coi họ chấp nhận sự khinh
mạn sỉ nhục như thế nào”. Chúa Giêsu vẫn yêu
cuồng si dù biết chúng ta phụ tình Ngài. Yêu là như thế
đó. Yêu không chỉ “chết trong lòng một ít” mà phải
te tua, tơi tả, và “chết thật” chứ không thể
cứ tà tà. Chán lắm, ngán lắm, ớn lắm, và sợ
lắm! Thế nhưng vẫn có những người thích
kiểu “không giống ai” như vậy. Hầu như người
đời không thể hiểu hết ý nghĩa chữ “yêu”
theo kiểu “ngược đời” như thế, chỉ
những ai có niềm tin vào Chúa-Giêsu-chịu-đóng-đinh
thì mới khả dĩ hiểu!
Mọi thứ luôn
liên quan lẫn nhau, cái này liên quan cái kia – trực tiếp hoặc
gián tiếp. Sách Công vụ cho biết có những người
từ miền Giuđê đến dạy thế này: “Nếu
anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê thì anh
em không thể được cứu độ” (Cv 15:1). Khi
đó, hai ông Phaolô và Banaba chống đối và tranh luận
khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định
cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem
gặp các Tông Đồ và các kỳ mục để bàn về
vấn đề đang tranh luận này. Tranh luận để
hiệp nhất thì đó là điều cần, nếu không
thì thật đáng quan ngại.
Tác giả sách Công
Vụ cho biết rằng bấy giờ các tông đồ và
các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết
định chọn mấy người trong các ông, để
phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa
(biệt danh là Basaba) và ông Xila, những người có uy tín
trong Hội Thánh. Họ trao cho phái đoàn bức thư có nội
dung thế này: “Chúng tôi nghe biết có một số người
trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại
đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm
anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất
trí quyết định chọn một số đại biểu,
và phái họ đến với anh em, cùng với những người
anh em thân mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những
người đã cống hiến cuộc đời vì danh
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa
và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều
viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định
không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những
điều cần thiết này: kiêng ăn đồ đã cúng
cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt
loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn
thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc
anh em an mạnh” (Cv 13:24-29). Con người thời nào cũng
có “máu” dễ sa đà lắm, thế nên luôn phải nhớ
lời tiền nhân căn dặn: “Cẩn tắc vô ưu”.
Cẩn trọng
là khôn ngoan – một nhân đức quý giá, bởi vì “khôn ngoan
là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15). Thật
vậy, “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người.
Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được
nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người
tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy
dỗ bảo ban” (Kn 7:14). Đó là kho báu vô giá: “Trân châu bảo
ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn
Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức
Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức
Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất” (Kn 7:9).
Có nhiều thứ
phải cẩn trọng, đặc biệt là miệng lưỡi
– ngôn ngữ, bởi vì lời nói có thể làm hại người
khác: “Nhất ngôn xuất, tứ mã nan truy”. Tác hại khôn lường
vì cái lưỡi! Chắc hẳn chúng ta cũng đã biết
điều này: “Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị
luật”. Luật phục vụ con người chứ con
người không phục vụ luật. Có con người
rồi mới phát sinh luật. Luật cũng cần thiết
để giúp con người hoàn thiện, nhưng theo luật
phải vì yêu mến thật lòng, chứ chỉ khư khư
giữ luật vì luật mà không vì yêu mến thì hóa vô ích. Thánh
Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì cũng
được”. Người nào dám yêu thì không hề sợ
bất cứ điều gì, kể cả cái chết, vì tình
yêu còn mạnh hơn cả Tử Thần.
Yêu thương
là đường lối của Thiên Chúa, là chân lý của
Ngài, là niềm khao khát vĩnh hằng của Ngài, và không chỉ
là quy luật mà còn là mệnh lệnh của Ngài. Ai cũng
phải cố gắng sống yêu thương, và không ngừng
cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc
phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả
hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước
biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Đồng
thời cũng phải biết chân thành mong muốn: “Ước
gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả
hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước
theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên
mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ
Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm
tạ Ngài” (Tv 67:5-6).
Chắc chắn
ai cũng mắc món nợ ân tình – cả ân nghĩa và tình cảm.
Nhưng vì yêu mến Thiên Chúa mà người ta càng muốn mắc
món nợ đó, món nợ không bao giờ trả hết ở
đời này. Ước vọng đó là niềm khao khát
khôn nguôi của những người tin vào Thiên Chúa, và cầu
chúc cho nhau điều tốt lành nhất: “Nguyện Chúa Trời
ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ
Người!” (Tv 67:8).
Mệnh danh Tông
Đồ của Tình Yêu và tự xưng là “môn đệ
được Chúa yêu”, Thánh trẻ Gioan là con người
can đảm, vì yêu mà ngài dám đứng dưới chân Thập
Giá, và rồi được Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ.
Thánh nhân kể về thị kiến: “Đang khi tôi xuất
thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao
hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem từ trời,
từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa.
Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc
thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng
và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần
canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc
con cái Ítraen. Phía Đông có ba cửa, phía Bắc có ba cửa,
phía Nam có ba cửa và phía Tây có ba cửa. Tường thành xây
trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười
hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21:10-21).
Thị kiến
là sự khác thường, thần bí, vượt ngoài tầm
nhìn phàm nhân. Thánh Gioan là thị nhân thần bí như vậy
vì được Thiên Chúa mặc khải nhiều điều
rất lạ lùng. Thánh nhân cho biết thêm: “Trong thành, tôi không
thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn
Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng
cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì
đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn
đèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Ôi, cuộc thị kiến quá
đỗi lạ lùng! Nhưng đó cũng là những điều
Chúa hứa ban cho những ai dám yêu Ngài hết lòng, hết sức,
và hết trí khôn – nghĩa là tất cả đều nhờ
Ngài, với Ngài và trong Ngài.
Một hôm, tông đồ
Giuđa (cũng gọi là Giuđa Nhiệt Thành hoặc Tađêô,
không phải Giuđa Ítcariốt) hỏi Đức Giêsu: “Thưa
Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con,
mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14:22). Nghe hỏi vậy,
Đức Giêsu đáp ngay: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ
lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy.
Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với
người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ
lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của
Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”
(Ga 14:23-24). Một loạt các mối liên kết của tình
yêu, như một đa giác có các cạnh và các góc không thể
tách rời nhau – kể cả các đường trung tuyến
hoặc đường cao. Một hệ lụy tất yếu
đối với tình yêu thương thật kỳ diệu!
Chúa Giêsu là Con Đường
duy nhất dẫn tới Chúa Cha, và cũng là Cửa Chuồng
Chiên duy nhất, Ngài căn dặn các đệ tử: “Các điều
đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với
anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa
Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ
dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ
lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga
14:25-26). Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần rất
quan trọng trong đời sống. Đó là tặng phẩm
vô giá mà Chúa Giêsu muốn dành cho mỗi chúng ta. Tại sao? Vì Ngày
rất yêu thương mỗi chúng ta, đến nỗi tên
mỗi người đều được Ngài khắc
vào lòng bàn tay (Is 49:16), đã cứu chuộc chúng ta bằng
giá máu và mỗi chúng ta đều là của riêng Ngài (Is 43:1).
Ngài luôn muốn
chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10:10),
và Ngài vừa hứa hẹn vừa động viên: “Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của
Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh
em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27).
Ngài xác định: “Thầy ra đi và đến cùng anh em.
Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng
vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng
hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước
khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em
tin” (Ga 14:28-29). Bất cứ điều gì cũng được
Ngài nói trước để không ai bất ngờ mà ngỡ
ngàng. Thế mà… Ôi chao!
Hôm nay, Thầy
chí thánh Giêsu dạy chúng ta hai điều quan trọng. Thứ
nhất là về tình yêu thương: “Hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12);
thứ nhì là về lòng can đảm: “Đừng sợ!” (St
15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21;
Xh 14:13; Xh 20:20; Đnl 31:6; Is 7:4; Is 8:12; Is 10:24; Is 35:4; Is 37:6;
Is 40:9; Is 41:10; Is 41:13-14; Is 43:1; Is 43:5; Is 44:2; Is 44:8; Is 51:7; Is
54:4; Gr 1:17; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Gs 10:25; Xp 3:16; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt
10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13;Lc 1:30;
Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Cv 18:9;
Kh 1:17-18; và còn nhiều nữa...).
Thật kỳ lạ:
Mệnh lệnh cách “Đừng Sợ” được đề
cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác
nhau. Như vậy, mỗi ngày chúng ta đều được
Thiên Chúa động viên – mỗi ngày một kiểu cho suốt
năm. Có hai điều này liên quan lẫn nhau: Yêu thì phải
can đảm, nghĩa là không sợ, còn nếu sợ thì không
thể yêu. Hệ lụy tất yếu là thế!
Lạy Thiên Chúa
Tình Yêu Vĩnh Hằng và Thương Xót Vô Tận, xin cho chúng
con biết can đảm để có thể sống trọn
tình yêu thương như Con Một Ngài – Người Tôi
Trung Đau Khổ. Xin Tình Yêu của Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh
biến đổi cuộc sống của mỗi chúng con
ngày càng trở nên hoàn thiện qua tác động của Chúa
Thánh Thần, nhờ đó mà chúng con xứng đáng là những
Kitô hữu đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất
của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|