HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CN LỄ NGÀY PHỤC SINH ABC
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN MẦU NHIỆM CHÚA
PHỤC SINH
I.
HỌC LỜI CHÚA
1.TIN
MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất
trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la
đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn
khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon
Phê-rô và người môn đệ
thương mến. bà nói: “Người ta đã
đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết
họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và
môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai
người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn
ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi
xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở
đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng
đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy
những băng vải để ở đó, (7) và khăn
che đầu, khăn này không để lẫn với các
băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra
một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ
kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi
vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy,
trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh
Thánh, Đức Giê-su phải trỗi
dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an
viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em
tin rằng Đức Giê-su là
Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà
được sự sống nhờ danh Người” (ga
20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức
Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại
như Người đã báo trước.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong
tuần: Theo Sáng Thế
Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ
Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một
tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa
Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là
ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời
còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra
thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả
hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày
Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga
20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất
trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô:
“Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc
mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại
viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng
sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị
trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét.
Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám
trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong
những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm
mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà
đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga
19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai
táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về
gặp ông Si-mon Phê-rô:
Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô
là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do
đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông
trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và
người môn đệ
thương mến: Cách nói “môn đệ
được thương mến” là kiểu nói riêng trong
Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình
một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến
tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ
và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống,
Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa
sống lại như nhiều lần Người đã
báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để
cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra
khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a
không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với
mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia
liền đi ra mộ:
Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và
xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là
Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ
để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy
lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi
vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau
hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý
do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước
Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh
hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến
Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao
bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền
thuyết còn được lưu giữ tại nhà
nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước
Ý. +
Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn
trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào
trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm
thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ
rộng mở và mải lo suy nghĩ về những
tấm khăn để lại, đủ thời gian cho
Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. +
Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng
nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9: + Và
khăn che đầu. Khăn này không để lẫn
với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp
riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác
vẫn còn để lại, khác với trường
hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng
“chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga
11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không
cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi
mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín
mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn
liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện
khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su
đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm
nào lại bỏ công sức và thời gian để làm
một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp
gọn để vào một chỗ rồi mới đem
xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin:
Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải
liệm xác được xếp gọn lại đã giúp
Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu
nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống
lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo
Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi
chết: Trước khi thấy các dấu chứng
vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin
Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã
báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ
trống, các khăn vải liệm xác, dây băng
được cuộn lại riêng một chỗ, thì các
ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh
được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và
tin Người đã thực sự sống lại từ
cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1)
Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất
trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà
Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản
tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau
như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế
của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy
biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô
và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su
đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra
mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách
nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an
chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến
mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi
thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và
khăn che đầu được xếp gọn, hai ông
đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống
lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin
(Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NGÔI MỘ TRỐNG CỦA
ĐỨC GIÊ-SU:
Đầu tháng 3/2007, kênh truyền
hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang
tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa Giê-su”.
Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980
ở khu Talpiot, phía đông Giê-ru-sa-lem. Mười hộp
đựng cốt đã đưọc khai quật, trong
đó có một hộp khắc tên Giê-su con ông Giu-se. Phải
chăng đoàn làm phim đã kiếm được
bằng chứng khảo cổ về con người Giê-su
thành Na-gia-rét ? Phải
chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào
Đấng Phục Sinh?
Các
chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế.
Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ
thứ nhất mang tên Giê-su; mười bốn phần
trăm mang tên Giu-se. Đây không phải là lần
đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng
những hộp đựng cốt như thế này
xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Giê-su con
ông Giu-se được khai quật từ năm 1930. Câu
chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giê-su
chỉ là giả tưởng.
Như vậy chúng ta có thể
đi đến một kết luận rằng tuy
chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi
mộ trống để quả quyết một cách chính
xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng
chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi
mộ trống là một sự kiện có thực. Sự
thật này có thể được coi là
một đóng góp quan trọng vào những sự
kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh
của Chúa.
Mừng
Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng: đằng sau
câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện
đích thực của một “Đấng Phục Sinh”,
của một quyền năng có sức mạnh biến
cải những trái tim đang đau buồn thất
vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con
người yếu đuối nhát sợ nên mạnh
mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái
chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và
đang sống.
2) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN
MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá,
Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy
vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người
vẫn còn mang những dấu tích đau thương
từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng
đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng
hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải
chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người
dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng
vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất
cả con cái loài người đều biết Chúa đã
chịu đau khổ và chịu chết để đền
thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả
lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít
người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại
nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận
biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo
Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất
cả mọi người trên địa đầu
đều được nghe Tin Mừng cứu độ
ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính
bốc đồng của loài người và nghi ngờ
họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các
Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó
thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào
đó gặp phải những bách hại chống
đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao
? Chúa có lập thêm một chương trình cứu
độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta
sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình
cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết
trước tính khí con cái loài người thường nhát
đảm sợ sệt và bất định, nên đã
thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho
họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn
toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được
sứ mệnh đó”.
3) MẦU
NHIỆM PHỤC SINH DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG VÔ BIÊN CỦA
THIÊN CHÚA :
Tại một nghĩa trang bên
Đức, có mội ngôi mộ rất được chú
ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa
cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt
rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều
người chú ý vì đó là ngôi mộ của một
người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu
người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố,
để nếu có sự sống lại của
người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới
mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi
mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn
kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt
giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp
đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy
mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua
ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài
của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây diễn
tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con
người, khi cho Đức Ki-tô sống lại từ
cõi chết để mở ra cho con người lối
đi vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con
người có thể chối bỏ và khước từ
Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con
người khôn lường được, Thiên Chúa
vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con
người tưởng mình có thể lẩn trốn
được Thiên Chúa, nhưng qua một hạt giống
nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len
lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa
của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui
của ngài là cho con người được hưởng
sự sống đời đời. Cho dù con người
có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, Ngài
vẫn luôn theo duổi và chờ đợi con người
đáp lại tình thương của Ngài để
được sống với Ngài.
4) GƯƠNG CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG
ĐỨC TIN:
Một câu chuyện rất cảm
động đã xảy ra hồi thế chiến thứ
hai tại Liên xô.
Một
người đàn bà bị bắt làm tù nhân trong một
trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu
chuyện mà bà đã mắt thấy tai nghe, để
mọi người tin vào sức mạnh của mầu
nhiệm phục sinh của Chúa.
“Một
buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam
với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi
khẽ:
-
Chị biết hôm nay là ngày gì không?
Rồi
không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp:
-
Hôm nay là ngày lễ Phục sinh.
Nghe
thế tôi tự hỏi:
-
Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Lễ
của niềm vui và của hy vọng nhưng trong tù
niềm vui của chúng tôi đã héo úa, khô cằn, còn
niềm hy vọng thì ta để lại trong lòng và không dám
suy nghĩ tiếp.
Bỗng
một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí
nặng nề:
-
Đức Kitô đã sống lại!
Tôi
quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên
xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh
lên sự lung linh huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ
mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả lời:
-
Ngài đã sống lại thật.
Quá
sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất
động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí
họ đang giận dữ lên án một việc chưa
bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên
lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến
đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị
mở tung cửa, hai nhân viên hỏi ai đã xướng
câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái
lôi sền sệt ra khỏi phòng.
Qua
tuần lễ Phục sinh, họ giam riêng cô vào phòng không có
lò sưởi để qua cái lạnh thấu xương
và cơn đói hành hạ một con người mà họ
cho là cuồng tín sẽ phải gục ngã.
Một
tuần sau, cô gái được trả lại phòng giam
chung với chúng tôi. Mặt cô xanh xao, người cô gầy
đi thấy rõ. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô
gái khều bọn tôi lại, và thều thào:
-
Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự
Phục sinh trong trại giam, những cái khác không quan
trọng gì cho lắm.
Nói
xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh
mắt cô vẫn ánh lên như dạo nào”.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm
chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng
Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và
đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài
Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A
MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi
đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi
thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ
Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng
đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và
xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng
mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng
dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại
chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy
trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi
thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ
để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc
16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng
chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga
20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy
mất xác Thầy và bà không biết họ đã để
Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ
rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm
lại được xác Thầy để mang về chôn
lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra
mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do
lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong
lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành
người đầu tiên gặp được Chúa
Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh
đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ
như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ
rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha
của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên
Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN
BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn
đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên
(x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được
chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là
người môn đệ được Thầy yêu
mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy
đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can
đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm
thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc
Thầy bị bắt đến khi bị xét xử
giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm
đứng dưới chân thập giá để chứng
kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và
được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm
Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng
dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi
thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ
đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa
Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng
chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn
Phê-rô và đạt đến đức tin trước
Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA
TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn
đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x.
Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi
sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn
được xếp đứng đầu danh sách Nhóm
Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn
đệ được nhìn thấy Thầy biến hình
trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép
lạ Người cho bé gái mới chết sống lại
(x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi
Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni
(x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã
đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại
thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại
diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là
Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen
có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội
Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc
như đá của ông. Người cũng trao quyền
cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn
được trao sứ
mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở
lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm
như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám
khuyên Thầy đừng chấp nhận con
đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông
đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông
không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách
khi quá tự tin vào mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát
chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy
cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù
lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi
người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua
việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt
cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh
hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được
Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên
nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có
lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần
phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại
diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề
quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga
6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên
đầy tớ của thượng tế để
bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an
để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng
Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin
Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy
bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để
kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện
mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn,
Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không
bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được
Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười
Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả
quyết người mặc áo trắng đứng trên
bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy
xuống biển bơi vào bờ để mau
được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên
xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao
sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn
chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn
chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng
chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga
21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG
MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a
Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra
thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa
Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng
Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến
đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và
thấy được ý nghĩa các sự kiện của
mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn
bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn
đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã
phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và
được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm
Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin
cho anh em (x Lc 22,32), và còn được trao quyền chăn
dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng
ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị
thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau
khổ thất bại giữa đời thường.
Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một
ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý
nhất hoặc những người thân yêu nhất không
còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi
tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria
Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã
không giam hãm được sự sống: Sự sống
đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã
bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã
chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ
được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1)
Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến
thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng
hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối
với những kẻ biết đặt trọn niềm
tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời
sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi
thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh
đau thương trái ý, bạn cần làm gì để
không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn
đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban
ơn giải cứu và giúp bạn được ơn
trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa
đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa.
Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp
phải đau khổ thất bại trong cuộc
đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu
được lý do của những hành động dấn
thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ
các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu
chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử
Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để
làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh
của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa
lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để
nhận ra giá trị tương đối của sắc
đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền
trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh
tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu
ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi
rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những
đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi
hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên
mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được
tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn
đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM
ĐAN VINH - HHTM
|