Sống trong tình trạng
ơn thánh – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm
Lời Chúa’)
Leonard da Vinci là một họa sĩ tài ba, nhưng khi
vẽ bức tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm của
tu viện Đức Mẹ Ban Ơn tại thành phố
Bắc Italia, ông phải mất nhiều năm mới hoàn
thành bức tranh vì không tìm ra những người mẫu
thích hợp. Một hôm nọ, ông gặp trong công viên Castellô
một thanh niên tên là Francisco, gương mặt bầu
dục tuyệt đẹp với phần trán an hòa và quý
phái, đôi mắt suông và trong suốt, tóc vàng hoe có dợn
sóng. Leonard liền mời chàng trai tuấn tú
ấy đến ngồi làm mẫu để ông vẽ Chúa
Giêsu.
Vài năm sau bức họa
vẫn chưa xong. Ông
ngày đêm gãi đầu bứt tai vì
không sao tìm ra được một người có
gương mặt dữ dằn làm mẫu, để ông
vẽ hình Giuđa, kẻ đã phản bội bán nộp
Chúa Giêsu. Tình cờ một buổi chiều, ông thấy
một người đàn ông có gương mặt xấu
xa dữ dằn đang nhìn các người khác đánh cá
ngựa, hắn chửi thề luôn miệng. Leonard
vui mừng vì đã tìm thấy mẫu người ông
đang cần. Ông gọi hắn ra
một góc và đề nghị với hắn nhận làm
người mẫu cho ông vẽ thì sẽ được
thưởng nhiều tiền. Gã đàn ông nhận lời
và cùng họa sĩ vào tu viện Đức Bà Ban Ơn.
Trong lúc họa sĩ đang chăm chú nhìn gương
mặt gã với vầng trán buồn, đôi mắt dữ
tợn, tai dựng đứng và dường như đang
nhớ đến một kỷ niệm nào đó, thì ông
nghe một tiếng nghẹn ngào. Ông hỏi hắn: Có
chuyện gì vậy? Bác cảm thấy
người không khỏe hay sao? Gã đàn ông trả
lời: Thưa thầy, chắc thầy còn nhớ cách
đây ba năm, tôi cũng ngồi trên chiếc ghế này
làm mẫu cho thầy vẽ hình Chúa Giêsu. Gã đàn ông nhìn
bức tranh gần hoàn thành trên tường và thở dài
nói: Tôi thật là một tên khốn nạn, đam mê và
tội lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại như
thế này.
Mẩu chuyện liên quan
tới cuộc đời Francisco kể trên, giúp chúng ta
cảm nhận thấm thía ý nghĩa dụ ngôn
người con hoang đàng của Chúa nhật hôm nay.
Dụ ngôn người con hoang đàng trong Phúc Âm thánh Luca là
một trong các dụ ngôn hay và cảm động nhất,
chứng minh cho thấy tài giảng dạy của Chúa Giêsu.
Có ba nhân tố giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu
đậm hơn:
- Thứ nhất là
động từ "lẩm bẩm". Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, nó là động
từ diễn tả thái độ của dân Do Thái
phản đối ơn Chúa và khước từ kiểu
cách cứu độ của Ngài. Nó là động
từ mà chúng ta thường gặp trong các sách Xuất
Hành, Dân Số, và Đệ Nhị luật đề
cập đến 40 năm dân Israel lang thang trong sa mạc,
và thường xuyên nổi loạn chống lại Thiên
Chúa và phản đối các ơn của Ngài. "Lẩm
bẩm" cũng là động từ diễn tả thái
độ người tội lỗi bé nhỏ, tối
tăm ngu muội, nhưng lại yêu sách
muốn chỉ vẽ cho Thiên Chúa biết phải hành
xử như thế nào để cứu rỗi nhân
loại. Đây cũng là thái độ mà
người Biệt phái và luật sĩ có đối
với Chúa Giêsu. Cũng giống như cha ông họ
ngày xưa, họ lẩm bẩm chỉ trích Chúa Giêsu giao du
nói chuyện và ăn uống với người tội
lỗi, bọn thu thuế, đĩ
điếm. Khi kể cho họ nghe dụ ngôn người
con hoang đàng, Chúa Giêsu muốn dạy cho họ biết
rằng Thiên Chúa không suy tư và hành động như
vậy. Trước lời phản kháng của
người con cả, muốn cho cha mình đập
thằng em hư đốn một trận nhừ tử
nên thân, rồi tống cổ nó ra khỏi nhà, nhưng
người cha hiền từ trả lời: "Em con
hư mất và nay lại tìm thấy".
- Động
từ "hư mất" là nhân tố thứ hai
giúp chúng ta hiểu rõ sứ điệp của dụ ngôn
trong Phúc Âm. Từ "hư mất"
không có nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu
trong ngôn ngữ ngày nay. "Hư mất" ở
đây có nghĩa là hoàn toàn thất bại trong ơn
nghĩa làm người và làm con cái Chúa của mình. Nó ám
chỉ thái độ khước từ trở về trong
vòng tay yêu thương của Thiên Chúa
tạo hóa, trở về trong lòng bàn tay đã nhào nặn nên
con người như Thiên Chúa. Đấng đã sáng
tạo nên con người, cho con người
được sống tràn đầy hạnh phúc, đã có
thể ngồi yên để nhìn sự thất bại hoàn
toàn đó của con người, và đây là một lý do
khác khiến cho Chúa Giêsu kể cho mọi người nghe
dụ ngôn người con hoang đàng. Nói cách khác Chúa Giêsu
muốn khẳng định rằng, ơn cứu
độ mà Thiên Chúa ban cho con người là một sự
kiện, là một thực tại cụ thể, con
người tiếp nhận ơn cứu độ khi
trở về trong vòng tay yêu thương
ấp ủ, nhân từ của Thiên Chúa.
Và nhân tố thứ ba giúp
chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu xa, đó là
- sự
hiện diện của người anh cả trong câu
chuyện. Kiểu cách suy tư và hành xử của
người anh cả diễn tả kiểu sống
của tất cả mọi người không hiểu và
không chấp nhận thái độ hành xử của Thiên
Chúa đối với con người. Người anh
cả nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ
thưởng người có công và phạt kẻ có tội
thế thôi, mà không hiểu rằng Thiên Chúa không thể
đứng yên nhìn cảnh con người do chính Ngài
tạo dựng nên, và giữ gìn yêu thương quý mến,
nâng niu trong lòng bàn tay vô hình của Ngài phải hư
mất, phải thất bại trong ơn gọi làm
người và làm con cái Chúa của mình. Và chính để
cứu rỗi loài người khỏi hư mất,
khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy
mà Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm
cha, làm mẹ để đem con người trở
về với vòng tay yêu thương của Ngài. Khi rộng
mở vòng tay ôm đứa con hoang đàng vào lòng, là Thiên Chúa
canh tân niềm vui tạo dựng, khi nâng niu con người
trong lòng bàn tay thánh thiện, quyền năng của Ngài
trong thời sáng tạo. Con người xinh đẹp vẹn
toàn ấy đã hư mất mà nay lại trở về
với Chúa. Chính vì thế nên phải mở
tiệc mừng.
Chúng ta không
biết câu chuyện kết thúc ra sao. Không
hiểu sau khi tha thứ và phục hồi phẩm giá cho
người con đã hư mất ấy, người cha
già có thành công trong việc thuyết phục người con
cả để vui vẻ vào nhà dự tiệc mừng em
sống lại hay không? Nhưng chúng ta biết một
điều chắc chắn, đó là đa số trong chúng
ta đều có cùng một tâm thức và cung cách hành xử
như người con cả. Chúng ta không bỏ Chúa đi
hoang, nhưng chúng ta không ở trong nhà Chúa, không sống
với Chúa, không có tâm tình và kiểu cách hành xử phản
ánh Tin Mừng của Chúa. Nghĩa là chúng ta
cũng rất xa Chúa và như thế có khác nào chúng ta
cũng hư mất, cũng giống như người
con cả trong dụ ngôn. Cho đến
nay, chúng ta chưa quyết định bỏ Chúa nhưng
chúng ta cũng chưa bao giờ nhất quyết
bước vào nhà sống với Chúa thật sự.
"Con ơi, mọi sự của Cha là của con". Chính lời nói đó của người cha già
khiến anh cả sợ hãi. Anh sợ hãi vì có một
con tim, như con tim dịu hiền
quảng đại vô bờ của cha. Anh
sợ hãi phải có cái nhìn yêu thương đại
đồng, tâm tình bao dung của cha. Anh
sợ hãi phải sống mà không hề nuôi các tâm tình thù
ghét, báo oán, gian ác trong lòng.
Cũng như anh con
cả của dụ ngôn, chúng ta sợ hãi phải trở
nên giống Chúa, hoàn toàn phải chia sẻ mọi sự
với Chúa và nên thánh như Chúa. Do đó chúng ta giữ đạo
nhưng không sống đạo. Có thể chúng ta
thường xuyên đi xem lễ mỗi ngày Chúa nhật hay
cả ngày thường nữa, thường xuyên lãnh
nhận các bí tích nhưng đạo không thấm vào lòng
chúng ta. Ra khỏi nhà thờ, chúng ta ăn
nói chua ngoa và hành xử gian dối như những
người không hề biết Tin Mừng của Chúa. Và đạo đó, quả thật là đạo
nhà thờ, như người ta thường gọi.
Nếu sống như thế là chúng ta
khước từ chấp nhận mầu nhiệm
nhập thể của Chúa và như thế cũng là đi
hoang rồi.
Trong thư thứ hai
gởi tín hữu Côrintô 5,17-21, thánh Phaolô kêu gọi mọi
người sống tình trạng ơn thánh mà Chúa Kitô đã
trao ban cho mọi người qua cái chết và sự
phục sinh của Ngài. Nghĩa là sống như một
thụ tạo mới, với một con tim
mới và một tinh thần mới, như tiên tri Giêrêmia
đã khẳng định trong chương 31 và tiên tri
Êdêkiel loan báo trong chương 36. Ơn hòa giải mà Thiên
Chúa trao ban cho con người qua cái chết của Chúa Giêsu,
cũng có nghĩa là ơn tha thứ và ơn cứu
độ. Cuộc sống mới ấy trao ban trả
lại cho con người các liên hệ quân bình với Thiên
Chúa, với tha nhân và với chính mình. Chương 5 sách
Giosuê nhắc cho dân Do Thái biết lời hứa cứu
độ hiện thực qua biến cố Thiên Chúa
giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai
Cập, đã dẫn đưa họ trở về
Đất Hứa. Cuộc sống khổ nhục buồn
thương không tự do, không phẩm giá xưa kia không còn nữa, giờ đây dân Do Thái
bước vào đất Hứa và bắt đầu
cuộc sống mới với các buổi lễ vui,
với công việc phụng tự, và các cơ cấu
đánh dấu một khúc rẽ mới trong lịch sử
của họ. Lịch sử của một dân tộc luôn
được Thiên Chúa yêu thương che chở và mời
gọi bước theo Ngài.
|