Đức Giêsu hiển dung - Lm
PX Vũ Phan Long
Cựu
Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu,
còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì
chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta.
1 - Ngữ cảnh
Đây
là biến cố cuối cùng trong thời gian hoạt
động tại Galilê (Lc 3,1–9,50):
Đức Giêsu đang ở tại một khúc quanh quan
trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng
tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên
xưng Người là "Đấng Kitô của Thiên
Chúa" (9,20) và nhân dịp đó, Người đã
củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ
bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng
giống như ở Mc 9,2-8, truyện Hiển Dung của
Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời
Đức Giêsu nói về đời môn đệ và
dường như trả lời một loạt các câu
hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ
được thấy trước vinh quang của
Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời.
Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới
của Đức Giêsu đối lại với hai dung
mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng
nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên
Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2 - Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba đơn
vị:
1) Hoàn cảnh của
cuộc Hiển Dung (9,28);
2) Cuộc Hiển
Dung (9,29-35):
a)
Lý do (cc. 29-32),
b)
Cuộc đối thoại (cc. 33-35);
3) Kết thúc cuộc
Hiển Dung (9,36).
3 - Vài điểm chú giải
- dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế
cho động từ "được biến hình"
(metamorphôthê) trong Mc (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện
về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại
giáo.
- có hai
nhân vật (30): Vì
được giới thiệu là "hai nhân vật, hai
người đàn ông" (andres dyo), ta có thể nghĩ
đến "hai người đàn ông y phục sáng
chói" trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc "hai
người đàn ông mặc áo trắng" trong truyện
Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và
Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở
đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân
vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang
tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy,
quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo
trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9:
đám mây).
- Xuất
hành (31): Rất có
thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục
Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới,
đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai-cập) mà vào Vinh quang
của Thiên Chúa (# Đất hứa).
- ngủ mê
mệt (32): Dịch sát
là "bị đè nặng trong giấc ngủ"
(bebarêmenoi hypnô).
- vinh quang
(32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng
từ "vinh quang" ở đây. Kiểu ngài nối
kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất
gần với truyện Ga 12,27-28
(vẫn được coi như tương tự với
truyện Hiển Dung trong các TMNL).
- thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh,
nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình
trạng này.
- đám mây
(34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn
đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là "từ
đám mây có tiếng phán ra". Vậy
có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng
dù thế nào, đám mây thường đi liền với
cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds
11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh
trong sách Talmud, có nghĩa là "sự hiện diện
của Thiên Chúa") của Thiên Chúa. Khi
thấy đám mây xuất hiện và dường như còn
bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
-
Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các "Bài ca về Người
Tôi Trung" (Is 42,1; 49,7).
- trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian
Đức Giêsu đi hoạt động. Công
thức này đối lại những gì được
kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.
4 -Ý nghĩa của bản văn
Khung
ảnh của bản văn này như sau: Ngay trước
bài tường thuật này là các giáo huấn về
đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện
Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám
(9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả
không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức
Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. Mc 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về
ngôn sứ Êlia (x. Mc 9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc
giả đã thấy giáo huấn về đời môn
đệ "vác thập giá" và thị kiến về
"vinh quang" được nối kết chặt
chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển dung. Không
thể hiểu được ý nghĩa của biến
cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên
trong hai chiều tư tưởng thần học chủ
đạo: sứ mạng cứu thế của
Đức Giêsu, yêu cầu đi theo
Người trên con đường thập giá, và ánh sáng
vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn
cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ tác giả Lc xác định
biến cố xảy ra vào "khoảng tám ngày sau khi
(Đức Giêsu) nói những lời ấy" (c. 28),
tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc.
23-27). Cả ba môn
đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến
Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc
8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình
trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống
thường ngày và đưa các ông lên núi (không
được xác định), biểu tượng
của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó,
Người yêu cầu "vác thập giá mà theo"
Người, bây giờ Đức Giêsu quyết
định "đem theo" ba môn đệ và kết
hợp các ông vào sứ mạng của Người,
để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang
nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục
sinh.
Điều
đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu
Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các
môn đệ, nhưng là "cầu nguyện". Việc cầu nguyện được
đặc biệt nêu bật trong TM III.
* Cuộc
Hiển Dung (29-35)
Đang
khi Người cầu nguyện, thì "dung mạo
Người đổi khác, y phục Người trở
nên trắng tinh chói loà" (c. 29): cuộc hiển dung
xảy ra như là kết quả của việc cầu
nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai
(= biến hình) có trong Mc và Mt (x. Mc 9,2; Mt
17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh
làm cho độc giả hiểu đây giống như
những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có
những tác giả khác lại cho rằng đây là một
gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải
qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản
văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của
Đức Chúa. Tầm quan trọng
được gán cho biến cố huyền nhiệm này
đưa độc giả đến chỗ nghĩ
rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như
là Đấng sống lại và đang ở trong thế
giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy,
vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh
chói lòa nơi y phục của Người cho biết
Người thông dự vào đời sống của Thiên
Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước
cuộc Phục sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung
mạo quen thuộc con người trần gian của
Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất
cả thực tại của Người; các ông hiểu
rằng Người không bị khóa kín trong những
giới hạn của thực tại trần gian. Đàng
sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn
giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của
Người.
Không những các giới hạn của
thực tại trần thế bị vượt quá, các
biên cương của thời gian cũng bị
lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông
Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử
dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân
tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai.
Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn
giáo độc thần và tái lập giao ước của
Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại
diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và
cuộc chiến đấu của Người cho dân
tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh
nghiệm bị từ khước và bị bách hại.
Nay hai ngài đàm đạo với Đức
Giêsu về "cuộc xuất hành" Người
sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi
toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là
một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem
cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa).
Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ
đến lịch sử Israel (đại diện bởi
Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử
của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa
đối với dân Người đến chỗ hoàn
tất.
Đáng tiếc là các môn đệ
nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi
đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi
Người bắt đầu nói đến chương
trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống,
phục vụ người nghèo, thì họ từ
khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại
và ngủ. Sau này, tại núi Ô-liu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi
được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không
hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi
tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: "Thưa
Thầy, chúng con ở đây, thật là hay !
Chúng con xin dựng ba cái lều..." (c. 33).
Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này,
tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc
và trần gian, một nếm cảm trước sự
viên mãn cánh chung, thiết lập tức
khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất
(G. Rossé). Chi tiết "dựng ba cái lều" vừa có
tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng
Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa
mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42;
Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình
đang nói gì" (c. 33). Ông chỉ dừng lại
với một khoảnh khắc sống ở bình diện
cá nhân chứ không nghĩ đến được số
phận cánh chung của toàn thể Dân
Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc
Hiển dung trong chương trình cứu độ phổ
quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên
bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn
cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34),
điều này cho hiểu là con người mỏng dòn
đang tiếp cận với mầu nhiệm của
sự thánh thiêng. Đám mây là sự
chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là
nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò
biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16;
24,15-18; 40,34t; 2 Mcb 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: "Đây
là Con Ta, người đã được Ta tuyển
chọn, hãy vâng nghe lời Người" (c. 35). Khẳng
định được liên kết với mạc
khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở
chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời
trực tiếp với Người Con, còn ở đây,
mạc khải được gửi đến các môn
đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou
akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại
từ. Diễn ra như sau: "Chính Người, anh em hãy
nghe lời!"). Mạc khải từ trời đã
tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về
tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1
nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của
Người Tôi tớ Đức Chúa, phải chịu
đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức
Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng
được hai bản văn này giới thiệu.
Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút
từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn
sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê
hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng
lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy
quyền vượt xa uy quyền của mọi
người từ xưa cho đến tận thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô
là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa
trên mặt đất. Cần phải
hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu
vượt quá những nỗi niềm chờ mong
Đấng Mêsia của dân Israel cà những nguyện
vọng trần tục của các môn đệ.
Thế
rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so
với Mc (Mc 9,8). Tiếng
nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở
đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn
đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến
lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn
đệ (x. Mc 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi
nhận rằng các ông "nín thinh". Đây
là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi
dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm
hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài
bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ ("Trong
những ngày ấy").
* Kết
thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh
lặng, không tiết lộ gì về những chuyện
đã xảy ra trên núi.
Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm
truyện Mc (Mc 9,9-13). Các ông
cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi
Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố
Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên
quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày
Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức
Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn
nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ:
Người sẽ thực hiện chương trình
cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và
thât bại. Nhưng qua lời giới
thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là
Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng
đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành
cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn.
Điều này được làm rõ ở cuối biến
cố, khi tác giả nói là "chỉ còn thấy một
mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là
dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu,
Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu
độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố
Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong
truyền thống Hội Thánh, vì được coi là
một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất
trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).
5 - Gợi ý suy niệm
1.
Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi:
để "cầu nguyện" (c. 28). Người
dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần
dà hiểu được những gì sẽ xảy ra,
đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người
đến. Giống như ba môn
đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức
Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến
gần Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích
hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn mầu
nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình
của Thiên Chúa. Nhờ có Người
làm trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có
ý làm cho chúng ta và chúng ta biết cách xử sự với
Thiên Chúa.
2.
Trong khi cầu nguyện, dung mạo của Đức Giêsu
"đổi khác" (c. 29). Tác giả không
nói là "biến hình" như các Tin Mừng khác. Điều xảy ra trong truyện này không
nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng là cho ba
môn đệ. Không phải Người
là Đấng phải thực hiện một kinh nghiệm
hoặc phải biết một điều gì mới,
nhưng chính các ông mới phải tiến tới trong
việc hiểu biết Người và tin tưởng vào
Người. Ánh sáng trên dung nhan Đức Giêsu cho chúng
ta hiể trong khi cầu nguyện, Người đã
hiểu chương trinh cứu độ của Cha
Người và đã chấp nhận chương trình
đó. Hy sinh của Người sẽ không
phải là một thất bại, mà là một bước
tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
3.
Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa Môsê
và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các
môn đệ một bằng chứng nữa để có
thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người
thuộc về thế giới Thiên Chúa. Nhưng
Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa,
một lịch sử được Thiên Chúa hướng
dẫn. Người phải đưa sứ mạng
của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất;
Người cũng đáng được trân trọng và
nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu không
xuất hiện bất ngờ như một sao băng không
hề có liên hệ gì với quá khứ, nhưng
Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những
săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với dân
Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn
tất.
4.
Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa không
phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng
gì bao nhiêu đối với đức tin và lối
sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan
này mà bản chất của tương quan của
Người đối với loài người chúng ta
cũng được làm sáng tỏ, cả ý nghĩa
của Người đối với chúng ta, những
chờ đợi mà chúng ta có thể có nơi Người,
những bổn phận phát xuất từ tương quan
này đối với chúng ta.
5.
Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ
phải nghe lời Đức Giêsu. Tất
cả Sách Thánh của Israel đều dẫn tới
Đức Giêsu. Bằng
bản thân, bằng hoạt động và bằng lời
nói của Người, Đức Giêsu đưa
đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của
Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có
Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu
Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối
với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho các môn
đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và
sự sống lại của Người, Người
sẽ phải giải thích Cựu Ước cho họ (x.
Lc 24,17).
|