DẤU LẶNG XÓT THƯƠNG
(Chúa Nhật III Chay, năm C)
Trong âm nhạc,
dấu lặng không được biết đến nhưng lại
thực sự quan trọng. Dấu lặng cần thiết
để “lấy hơi” hoặc nghỉ ngơi để
có thể diễn tấu
tiếp, đôi khi chỉ
là “dấu ngắt”, nhất
là đối với ca sĩ,
họ là người làm sống động các bài hát, ca sĩ
xử lý hơi thở và giai điệu càng tốt thì bài hát càng hay. Không chỉ vậy, các dấu lặng có trường độ ngắn đôi
khi tạo được
nét độc đáo
cho giai điệu.
Trong cuộc
sống, người ta cũng rất cần thời gian
nghỉ ngơi để lấy lại sức. Chúa
Giêsu cũng bảo các
môn đệ “hãy
lánh riêng ra đến một nơi
thanh vắng mà nghỉ
ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Đó là “dấu lặng” cần thiết trong giai
điệu cuộc sống – cả đời thường
và tâm linh. Loại “dấu
lặng” đặc trưng đó tuy “tĩnh” mà vẫn “động”, không hề “lặng” vì tinh thần vẫn hoạt động. Lòng
thương xót của Chúa có
vẻ tĩnh mà rất động. Kinh Thánh
cho biết: “Chúa
xót thương hết
mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không
nhìn đến tội lỗi
loài người,
để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11:23).
Thiên Chúa chỉ muốn tình yêu chứ không cần thứ gì khác (1 Sm 15:22; Tv
50:8-9; Tv 51:18; Hs 6:6). Ngài rất
kiên nhẫn, Ngài cũng
muốn chúng ta phải kiên nhẫn – với tha nhân và với chính mình. Kiên nhẫn hoặc nhẫn nại là trạng thái chịu đựng trong những lúc
khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can
đảm và
kiên trì đối mặt với
điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng.
Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng
là nhân đức trong
đời sống tâm linh, là dấu-lặng-sống-động thể
hiện lối sống nhân đức.
Khi kiên nhẫn,
người ta chịu đựng một mình,
người ta chủ động
chứ không thụ
động. Đó là sức
mạnh tập trung cao độ của con người. Sự
kiên nhẫn rất cần
thiết vì là loại
“cỏ quý” như bùa hộ mạng luôn đem theo bên mình, nhưng
phải khổ luyện mới khả
dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận
định: “Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can
đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này”. Nghĩa
là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục, khác hẳn với những người bình
thường. Khác người chứ không lập dị hoặc dị hợm.
Kinh Thánh cho biết rằng ngày xưa, ông Môsê
chăn chiên cho bố vợ là
Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây.
Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây
cháy bừng mà
không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: “Mình
phải lại xem cảnh
tượng kỳ lạ này mới được: vì sao
bụi cây lại không cháy rụi?” (Xh
3:3). Đức Chúa thấy
ông lại xem, tiếng
Thiên Chúa phát ra từ
giữa bụi cây: “Môsê! Môsê!”. Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” (Xh
3:4). Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi
đang đứng là
ĐẤT THÁNH” (Xh
3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Linh Địa, là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv
20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1
Pr 1:16; Ga 6:69).
Sau đó, Thiên Chúa lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên
Chúa của Ápraham,
Thiên Chúa của Ixaác,
Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh
3:6). Ông Môsê phải che mặt
đi, vì SỢ NHÌN PHẢI THIÊN CHÚA. Tại sao vậy? Không phải là Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó
coi, mà Thiên Chúa là Đấng
Thánh. Mắt phàm
nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa –
Đấng là Nguồn Sáng? Biết vậy nên Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: “Ta
đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta
bên Ai-cập, Ta đã
nghe tiếng chúng
kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.
Ta xuống giải thoát
chúng khỏi tay người
Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi,
rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người
Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút” (Xh
3:7-8). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của
con người, Ngài thấu
suốt mọi sự (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2
Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn
21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10 :12; Gr 11:20;
Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), thực sự Ngài chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Lúc đó, ông Môsê thân thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái
Ítraen và nói với họ:
Thiên Chúa của
cha ông anh em sai tôi đến
với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên
Đấng ấy là gì?
Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh
3:13). Thiên Chúa xác nhận
với ông Môsê: “Ta là ĐẤNG HIỆN HỮU. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi
đến với anh em” (Xh 3:14). Không vòng vo. Trực tiếp. Chính xác. Rõ ràng.
Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là
danh Ta cho đến
muôn thuở, đó là
danh hiệu các ngươi
sẽ dùng
mà kêu cầu Ta từ đời
nọ đến đời kia” (Xh 3:15).
Khi đọc
đoạn Kinh Thánh này và biết rằng Thiên Chúa mà chúng ta
đang tin kính và tôn thờ
là ĐẤNG HIỆN HỮU,
chắc chắn chúng ta thực
sự hạnh phúc vì chúng ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn, không mơ hồ hoặc dị đoan chi cả. Quả
thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO
DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY.
Nhưng Thiên Chúa của
chúng ta đã xác định
rõ ràng và chắc chăn:
TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU
(Xh 3:14; Ga 8:28). Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU và HẰNG SỐNG. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng
ta đi đúng Đường
Chân Lý của Thiên
Chúa Thật. Sự may mắn
mầu nhiệm chứ không ngẫu nhiên.
Chắc
hẳn như vậy nên Thánh Vịnh gia luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá
quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng
ít người còn biết nhớ ơn để mà tạ ơn. Phúc Âm đã đề cập một ví dụ điển hình: Mười người được ơn,
nhưng chỉ có một
người trở lại tạ ơn Chúa,
mà người biết ơn
đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17:11-18), chắc
chắn CHÍN NGƯỜI
VÔ ƠN BẠC NGHĨA
KIA LÀ NGƯỜI CÓ
ĐẠO – dù người đó ở cấp bậc nào,
nói chung là những người mệnh
danh Kitô hữu, đừng vội
mạo nhận mà cho rằng
người địa vị cao thì “ngon” hơn người ở địa vị thấp! Chính
Chúa Giêsu đã đặt
vấn đề: “Thế thì chín người kia đâu?”. Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng
mà lại rất đau
nhức – nhói buốt
tận tủy xương!
Nhưng rồi mỗi khi gặp trắc trở,
con người mới “giật mình” và lại hối cải: “Chúa tha
cho ngươi muôn ngàn tội
lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi
khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân
nghĩa với lượng
hải hà” (Tv 103:3-4). Thiên Chúa
luôn thông cảm và “chịu đựng” nên vẫn luôn nhân hậu và xót thương, Ngài
“phân xử công
minh, bênh quyền lợi những
ai bị áp bức,
mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en thấy
những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:6-7), bởi vì
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người CHẬM GIẬN và
GIÀU TÌNH THƯƠNG” (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương
kỳ lạ như vậy: “Như
trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình
Chúa thương kẻ
thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương
xót kỳ lạ như vậy
của Thiên Chúa thì tất cả chúng ta cùng đường, hết đường sống, thực
sự “tận cùng bảng
số” (theo kiểu nói ngày nay).
Đối
với Saolê, từ
một người Pharisêu và “chuyên gia” về việc bách hại đạo, bỗng biến thành
Phaolô nhiệt thành
rao giảng về một
Nhân Vật Quan Trọng
(VIP) mà chính ông đã tìm mọi
cách để triệt
hạ. Nhưng rồi ông không thể im lặng mà phải nói ra: “Thưa anh em,
tôi không muốn để
anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông
chúng ta đều được
ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển
Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám
mây và trong lòng biển,
để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng,
tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng,
vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng
đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1
Cr 10:1-4). Chữ “tất cả”
và chữ “một” khác
nhau hoàn toàn, thế nhưng lại
không hề khác
chút nào. Dù “thuận” hay “nghịch”
cũng vẫn trong một tổng thể hài
hòa.
Và rồi
Thánh Phaolô nói thêm: “Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy
ra để làm bài học, răn dạy chúng
ta đừng chiều theo
những dục vọng xấu xa như cha ông
chúng ta” (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời mỗi chúng
ta cũng vậy, thất bại
và đau khổ luôn là
bài học quý
giá, là dấu lặng cần
thiết, dù dấu
lặng đó dài hay ngắn. Đó chính là tiếng Chúa cảnh cáo để thức tỉnh chúng
ta, vì Ngài luôn hiện hữu
trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc
hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên
ông viết trong bài
thánh ca “Chúa Có Mặt Trong Lịch
Sử Loài Người” với
ca từ đậm chất Đức Tin trong phần
điệp khúc: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời,
Chúa có mặt trong lịch
sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá,
khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên
nhiên, không gian thời
gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha”.
Vâng tất cả đều
được Thiên Chúa quan phòng và tiền định, dù chỉ là một
sợi tóc mong manh và nhỏ
nhoi.
Thiên Chúa là Dấu Lặng Vĩ Đại trong Tình
Khúc Thương Xót. Ngài vẫn
luôn kiên nhẫn chờ
đợi tội nhân trở về với Ngài,
đến nỗi người
ta cảm thấy khó tin mà cho rằng “không hề có Thiên Chúa”. Mặc dù chúng ta không ngừng tái phạm, toàn hứa lèo, nhưng lòng thương
xót của Ngài vẫn bao phủ tất cả, lớn hơn
mọi tội lỗi của cả thế gian này
(Nhật Ký Thánh Faustina, số 1485). Thánh Phaolô đã cảm nhận được sâu sắc về lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu
trách, như một
số trong nhóm họ
đã lẩm
bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những
sự việc này xảy ra cho họ để làm
bài học, và
đã được
chép lại để
răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời
sau hết này” (1 Cr 10:10-11). Do đó,
không ai dám mạo nhận bất
cứ điều gì, vì “ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là
biết sống kiên nhẫn, biến mình thành một dấu lặng nhỏ trong trường
ca Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa.
Thánh sử
Luca tường thuật rằng, vào một ngày nọ, có mấy người đến kể lại
cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Đức Giêsu hỏi lại: “Các
ông tưởng mấy
người Galilê này phải chịu số phận đó vì
họ tội lỗi
hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc
13:2). Tình trạng “tưởng
mình hơn người”
rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Đó là ý tưởng “chết người”. Điều
này gợi nhớ tới
dụ ngôn hai người
cùng lên Đền Thờ
để cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng
ta quên (hoặc không
muốn nhớ) rằng chính
Chúa Giêsu đã minh định:
“Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình
Thiên Chúa” (Lc 18:19). Xác định như vậy và biết mình chỉ là số-không-to-lớn-rỗng-tuếch để có thể đè bẹp “cái tôi tồi tệ” của mình.
Và Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng
như mười tám người kia bị tháp
Silôác đổ xuống
đè chết,
các ông tưởng
họ là những
người mắc tội nặng hơn tất cả mọi
người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói
cho các ông biết: không
phải thế đâu;
nhưng nếu các
ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người
ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng?
Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn và chịu đựng đấy thôi.
Chính sự kiên nhẫn của Ngài là lòng thương
xót Ngài dành cho chúng ta vậy.
Rồi
Đức Giêsu kể
dụ ngôn này: Người
kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình.
Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,
nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba
năm nay tôi ra cây vả
này tìm trái, mà không thấy.
Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón
phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc
13:8-9). Ai xin chủ nhân
trì hoãn việc đốn cây?
Đó là Chúa Giêsu – Người
Con Thừa Tự của Chủ Nhân. Chính Ngài đã
mặc khải Thiên
Chúa, đã chịu đau khổ
và chịu chết để
minh chứng Tình Yêu – Lòng Thương Xót, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh
Tâm qua Thánh nữ Margaritta Maria
Alacoque (1647-1690), và ngày nay là Lòng Thương Xót – được mặc khải qua Thánh nữ Maria Faustyna Kowalska (1905-1938). Quả thật,
Thiên Chúa vô cùng kiên nhẫn
vì yêu thương những
thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta!
Lạy
Thiên Chúatừ
bi nhân hậu,
chúng con thật
lòng xin lỗi
Ngài vì chúng con quá tồi
tệ mà vẫn
ảo tưởng, xin biến đổi trái
tim xơ cứng của
chúng con để
chúng con không phụ
lòng kiên nhẫn
và nhân từ
của Ngài, đồng thời có thể phần nao đáp lại Tình Yêu bao la của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của
nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|