CHỮ TÂM
HÃY NHÂN TỪ NHƯ THÁNH PHỤ NHÂN ÁI
ĐỪNG XÉT ĐOÁN ĐỂ CHÚA TRỜI THỨ THA
Đó chính là “cái tâm” của các Kitô hữu – nói chung, và của các tín nhân Công giáo – nói
riêng. Lòng nhân từ luôn
liên quan sự tha thứ. Cụ
thi hào Nguyễn Du đã biện luận: “Thiện căn ở tại
lòng ta – Chữ
Tâm kia mới
bằng ba chữ Tài”. Tâm
không cần Tài,
nhưng Tài luôn cần Tâm, nếu không thì Tài sẽ hóa Tai (tai ương, tai họa).
Chữ
TÂM có khá nhiều nghĩa
– đen và bóng: tâm tạng (trái tim), tâm thất (ngăn dưới trong trái
tim), tâm phúc (bụng dạ, lòng,
ruột), tâm cảm (lòng, tình cảm), tâm phục (thật lòng kính trọng vâng theo), tâm ý (lòng dạ và đầu óc), đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý), viên tâm (điểm giữa vòng tròn, trọng tâm, trung tâm), tâm tưởng, tâm tư, tâm niệm, tâm nguyện, tâm thức, tâm tính, tâm tình, tâm địa, tâm ý, tâm lý, tâm trí, tâm thần, tâm trạng, lương tâm,
tâm hồn, tâm
linh,...
Chữ
Tâm được
đề cập ngay ở đầu Kinh Pháp
Cú: “Tâm dẫn
đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Chữ Tâm liên quan việc sửa mình (tu thân). Cổ nhân có câu: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính
nhi bất văn, thực
nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân tại chính kỳ tâm”. Nghĩa
là “nếu tâm
trí không để vào
đó, thì dẫu nhìn mà
chẳng thấy, dẫu để
tai mà chẳng nghe, dẫu
ăn mà chẳng biết mùi vị. Như vậy nên gọi là sửa mình cốt ở chỗ làm
cho lòng (cái tâm) mình ngay thẳng.
Trình thuật
1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-23 cho biết: Vua Sa-un lên
đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông Đa-vít trong sa mạc Díp. Đang đêm, ông
Đa-vít và ông A-vi-sai đến
chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong trại binh, cây
giáo của vua cắm xuống
đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và quân binh thì
nằm chung quanh.
Ông A-vi-sai nói với ông Đa-vít: “Hôm nay Thiên Chúa
đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó
xuống đất, một
nhát thôi; cháu không cần
đâm nhát thứ hai”.
Ông Đa-vít nói với
ông A-vi-sai: “Đừng
giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa
đã xức dầu tấn
phong mà vô sự đâu?”. Dù
sống thời Cựu Ước, với
luật “răng đền răng, mắt đền mắt”,
nhưng ông Đa-vít vẫn
có một tấm lòng –
nhân từ và tha
thứ.
Sau đó, ông Đa-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người
ra đi. Không ai thấy,
không ai hay, không ai thức
dậy. Họ đều ngủ cả, vì
Đức Chúa
đã cho một giấc ngủ
mê ập xuống trên họ. Ông Đa-vít đi sang phía bên kia
và đứng trên
đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. Ông
Đa-vít nói: “Cây giáo của
đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công
chính và lòng trung thành của
họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con
đã không muốn tra tay hại
đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26:22-23). Đó là cái tâm cần thiết mà ông Đa-vít đã có.
Martin Luther King (1929-1968) có triết lý sống tuyệt vời: “Yêu thương
là điều duy nhất có thể biến đổi kẻ thù
thành bạn hữu”. Điều đó rất phù hợp với giáo huấn mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy
yêu thương nhau” (Ga 13:34; Ga 15:12 và 17). Đó
chính là dấu hiệu chứng
tỏ ai thực sự là môn đệ của Ngài (Ga 13:35). Thánh Gioan
nói rằng chúng
ta không chỉ PHẢI tin vào
danh Đức Giêsu
Kitô mà còn PHẢI yêu thương
nhau (1 Ga 3:23).
Cái “phải”
đó không có nghĩa là ép buộc,
mà là nhận thức và tự nguyện. Trong tâm
tình yêu mến, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá
quên mọi ân huệ của Người. Chúa
tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành
các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân
nghĩa với lượng
hải hà” (Tv 103:1-4). Lời tự nhủ đó là
điều tâm niệm và tâm nguyện, đồng thời cũng là
cách dẫn chứng để
chính mình tâm phục
khẩu phục – kể cả tha nhân.
Nhờ
vào các nguồn đáng
tin cậy khác
nhau – từ cổ chí kim,
cách riêng là chính kinh nghiệm
sống tâm linh của
mỗi người, chúng ta biết chắc chắn rằng Thiên
Chúa luôn “từ bi nhân hậu, chậm giận và
giàu tình thương, chẳng
trách cứ hoài,
không oán hờn mãi,
không cứ tội ta mà xét
xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8-10).
Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi nhân từ đến nỗi phàm
nhân có lúc cảm thấy phân
vân, thế nhưng Ngài thực sự là vậy, không thể khác được, bởi vì đó là bản chất của Ngài và
chính Ngài xác nhận: “Ta vốn
nhân từ” (Xh 22:26). Và rồi Thánh Gioan cũng đã
định nghĩa về
Ngài: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Một định nghĩa ngắn gọn
nhưng bao hàm tất
cả.
Nếu
Thiên Chúa chấp tội,
chẳng ai có thể
nên thánh, chẳng ai có thể vào Thiên Đàng. Thế nhưng thật diễm phúc
cho chúng ta, vì mọi thứ tội
và tội của thế
gian này cũng chỉ
là “chuyện nhỏ” đối
với Ngài: “Như đông đoài cách xa nhau
ngàn dặm, tội ta
đã phạm,
Chúa cũng ném thật
xa ta. Như người cha chạnh lòng
thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv
103:12-13). Thế đấy, tội
gì cũng được
tha – dù nhỏ hay to, nhẹ
hay nặng, khinh tội hoặc trọng tội, nhưng chỉ
có một tội không
được tha: tội phạm
tới Thần Khí – Chúa Thánh Thần (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10). Hữu tâm
thì được tha, vô tâm
thì đành chịu (hoặc ráng
chịu).
Thánh Phaolô trích dẫn: “Như có lời đã chép: con người đầu tiên là
A-đam được
dựng nên thành một sinh vật, còn
A-đam cuối cùng
là thần khí ban
sự sống. Loài xuất hiện trước không
phải là
loài có thần khí, nhưng
là loài có sinh khí; loài có thần
khí chỉ xuất
hiện sau đó” (1 Cr 15:45-46). Hai con người với hai dạng “sức sống”
hoàn toàn khác nhau. A-đam đầu tiên là nhân loại, A-đam cuối cùng
là Đấng Tạo Hóa –
Đức Giêsu
Kitô.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng hơn: “Người thứ nhất bởi đất mà ra
thì thuộc về đất;
còn người
thứ hai thì từ
trời mà đến. Những kẻ thuộc về
đất thì giống
như kẻ bởi đất mà ra;
còn những kẻ thuộc
về trời thì giống như Đấng từ trời mà
đến. Vì thế, cũng như chúng
ta đã mang hình ảnh
người bởi đất mà ra,
thì chúng ta cũng sẽ
được mang hình ảnh Đấng từ trời mà
đến” (1 Cr 15:47-49). Chúng ta là loài người, mang thân bụi phận cát, nhưng được hình thành một cách lạ lùng, khiến Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139:14).
Trình thuật
Lc 6:27-38 (≈ Mt 5:38-48; 7:1-2) đề cập hai vấn
đề, và cũng là hai mệnh lệnh: tình yêu thương
và lòng nhân từ – yêu thương
và nhân từ với bất
kỳ ai – kể cả kẻ thù. Yêu thương và
nhân từ không
thể tách rời nhau, có cái này thì cũng có
cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia.
Nói yêu thương thì không khó, thực hành yêu thương thì
rất khó, nhưng không thể không làm, vì đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu
Kitô: “Hãy yêu kẻ
thù và làm ơn cho kẻ
ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.
Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo
ngoài của anh thì cũng
đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho,
ai lấy cái gì
của anh thì
đừng đòi lại”.
Lòng yêu thương vô cùng quan trọng, là thước đo lòng mến Chúa, và là “món nợ” mà ai cũng phải trả xong cho đến đồng
xu cuối cùng. Chính Chúa Giêsu đã nói chi tiết: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có
chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt
5:23-24). Và Thánh Gioan giải
thích: “Nếu
ai nói: ‘Tôi yêu mến
Thiên Chúa’ mà lại
ghét anh em mình, người
ấy là kẻ
nói dối; vì ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga
4:20). Cách so sánh chí lý!
Thật
vậy, Chúa Giêsu nói rất cụ thể: “Anh em muốn người
ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Điều Ngài nói rất đời thường chứ chẳng
xa rời thực tế. Tương tự, người
đời cũng nhận định: “Kỷ sở bất
dục vật thi ư nhân” –
Mình không muốn điều gì cũng
đừng làm
cho người khác. Rồi Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương
kẻ yêu thương
mình thì có gì là ân với
nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương
kẻ yêu thương
họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn
gì là ân với nghĩa? Ngay cả
người tội lỗi cũng làm như
thế. Nếu anh em
cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn
gì là ân với nghĩa? Cả
người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi
vay mượn để được trả lại sòng
phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay
mà chẳng hề hy vọng
được đền trả. Như vậy, phần
thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh
em sẽ là con
Đấng Tối Cao, vì Người vẫn NHÂN HẬU với cả PHƯỜNG VÔ ÂN
và QUÂN ĐỘC ÁC”. Lúa
và cỏ vẫn sống
chung một nguồn nước và cùng hấp thụ chất dinh dưỡng như
nhau. Nắng mưa chẳng cho riêng ai – dù người đó tốt hay xấu, biết điều hay
ngang ngược.
Chúa Giêsu đưa ra một loạt mệnh lệnh – mệnh lệnh
xác định và phủ định: “Anh em HÃY có
lòng nhân từ, như
Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em ĐỪNG xét
đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em
ĐỪNG lên án
thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em HÃY
tha thứ thì sẽ được Thiên
Chúa thứ tha. Anh em HÃY
cho thì sẽ được
Thiên Chúa cho lại.
Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng
đã dằn,
đã lắc
và đầy
tràn, mà đổ
vào vạt áo
anh em. Vì anh em đong bằng
đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu
ấy”. Thiên
Chúa rất đại lượng
và hào phóng, không ai phải
chịu thiệt bao giờ. Ngài nhân lành nhưng chí
công, và thời gian cũng có hạn.
Có mọi
thứ mà không có đức
ái thì cũng hoàn toàn vô ích! (x. 1 Cr 13:1-3). Ca dao Việt Nam so sánh rất cụ thể:
Dẫu
xây chín bậc
phù đồ (*)
Chẳng bằng
làm phúc cứu
cho một người
Đó là cái Tâm mà ai cũng phải có, gọi là “đạo làm người”, loại “đạo” này
không phân biệt bât kỳ tôn giáo nào, kể cả những người vô thần, bởi vì là con người thì ai cũng phải có loại “đạo” đó.
Chẳng
dễ gì để sống có cái
Tâm, bởi vì
không chỉ mệt mỏi
mà còn khổ lắm, nhưng
cái khổ đó rất có giá trị. Có lòng yêu thương
thì sẽ có cái
Tâm, và làm được
điều kỳ diệu, như Thánh Faustina Maria
Kowalska cho biết: “Tình
yêu cao cả có thể biến đổi những điều
nhỏ thành những điều to, và chỉ có tình yêu đó mới làm cho hành động của chúng
ta có giá trị”. Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Bạn phải chấp nhận
thập giá của
mình, nếu bạn
can đảm vác nó thì nó sẽ đưa bạn tới Thiên
Đàng”.
Lạy
Thiên Chúa nhân lành, luôn nhân hậu và giàu lòng nhân ái, xin biến đổi để chúng
con có thể nhân từ với mọi người, sống
nhân hậu như Ngài
mong muốn, xin giúp
chúng con biết hy sinh và chịu đựng nhau vì yêu
mến Ngài,
để đền tội
của mình, để cầu nguyện cho tha nhân và
các linh hồn. Chúng
con cầu xin nhân
danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng Cứu
Độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Phù đồ là cái Tháp, Tháp-Bà (tiếng Hoa, chữ âm kép, chứ không có nghĩa là tháp thờ bà chúa), Stupa (tiếng Phạn, nghĩa đen là
“búi tóc”), hay Thạt (tiếng
Lào, có gốc tiếng Phạn
là Dhatu). Theo truyền
thống Phật giáo, phù đồ là ngôi mộ chôn giữ một phần xá lợi (di thể của Phật) hoặc
là nơi tưởng
niệm Phật và môn đệ có di thể. Phù đồ cũng được gọi là
Tháp Phật, Bảo Tháp, Đại Bảo Tháp.
|