HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 4
THƯỜNG NIÊN C
Gr 1,4-5.17-19 ; 1 Cr 12,31-13,13 ; Lc 4,21-30
ƠN GỌI
VÀ SỨ VỤ LÀM NGÔN SỨ CỦA NGƯỜI
TÍN HỮU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc
4,21-30
(21)
Đức Giê-su bắt đầu nói
với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm
lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. (22)
Mọi người đều tán thành và
thán phục những lời hay ý
đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phài là con ông Giu-se
đó sao?”.(23) Người bảo với
họ: “Hẳn là các ông muốn nói
với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi,
hãy chữa lấy mình! Tất cả
những gì chúng tôi nghe nói ông đã
làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm
tại đây, tại quê ông xem nào! (24) Người
nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một
ngôn sứ nào được chấp nhận
tại quê hương mình”. (25) “Thật vậy, tôi
nói cho các ông hay: thiếu gì bà góa
ở trong nước Ít-ra-en vào
thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt
ba năm sáu tháng, cả nước phải
đói kém dữ dội. (26) Thế mà ông
không được sai đến giúp một
bà nào cả. Nhưng chỉ được sai
đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền
Xi-đon. (27) Cũng vậy, thiếu gì
người phong hủi ở trong nước
Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa. Nhưng
không người nào được sạch,
mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ
Xy-ri-a thôi”. (28) Nghe vậy, mọi người trong
hội đường đầy phẫn nộ. (29)
Họ đứng dậy, lôi Người ra
khỏi thành (thành này được xây
trên núi). Họ kéo Người lên tận
đỉnh núi, để xô Người xuống
vực. (30) Nhưng Người băng qua
giữa họ mà đi.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU
BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG BÁCH
HẠI.
Tin mừng hôm nay cho
thấy Đức Giê-su đã bị người
đồng hương Na-da-rét không tin và bách
hại: vì họ đã không được Người
làm phép lạ để chứng minh vai trò
Thiên Sai của Người trong khi Người
lại đòi họ phải có đức tin như
điều kiện để Người làm
phép lạ. Người trưng dẫn hai nhân
vật thời xưa là bà góa nghèo
ở Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man
ở Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã nhận được
phép lạ nhờ đức tin. Do không
được thỏa mãn yêu cầu, nên dân
Na-da-rét đã biến từ thái độ thán
phục ban đầu sang tức giận muốn giết hại
Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + “Hôm nay đã
ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị
vừa nghe”: Đức Giê-su trình bày
sự xuất hiện của Người như
khai mở thời kỳ hồng ân mà các
ngôn sứ đã loan báo, nhưng hồng ân
cứu độ ấy không dành riêng cho dân
Ít-ra-en mà cho mọi dân tộc. Tin mừng Lu-ca
thường nhấn mạnh đến tính
cách hiện tại của ơn cứu độ
bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông
này không phải là con ông Giu-se đó sao?”: Khi
ra giảng đạo Đức Giê-su
được 30 tuổi và thiên hạ vẫn cho
rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc
3,23).
- C 23-24: + “Thầy lang ơi,
hãy chữa lấy chính mình!”: Đức
Giê-su đã dùng câu tục ngữ này
để diễn tả ý muốn của các
người đồng hương Na-da-rét, đòi
Người phải làm phép lạ để
ưu tiên phục vụ đồng hương, giống như
Người đã từng làm ở các
nơi. + Ca-phác-na-um: là một thành
phố nằm về hướng Tây Bắc
biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt
động của Đức Giê-su. Tại đây, Đức
Giê-su đã chữa lành nhiều bệnh nhân
và thực thi nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28): tha
tội trước khi chữa người
bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm đến người
tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung trong việc giữ
luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông
cũng hãy làm tại đây, tại quê
hương ông xem nào!”: Dân làng Na-da-rét
muốn thử thách Người giống
như Xa-tan đã làm. Họ muốn lợi
dụng Đức Giê-su để phục vụ cho ích
lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì
tưởng đã thấu hiểu nguồn gốc
của Đức Giê-su, nên họ không tin
Người là Con Thiên Chúa từ
trời mà đến. Họ đòi
Người phải làm phép lạ để chứng
minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc
11,16). + “Không một Ngôn sứ nào
được chấp nhận tại quê hương
mình”: Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn
viên của Thiên Chúa để an ủi những
người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo
một tương lai tốt đẹp sắp dến
và động viên dân Do thái trung thành
với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is
49,8-15); Cáo trách tội của các vua quan và
dân chúng như ngôn sứ Sa-mu-en đã trách
phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23), Ngôn sứ Na-than
đã cáo trách tội “giết chồng
đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Simon
12,1-15), Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã lên án dân
chúng thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)... Chính do
“Trung ngôn nghịch nhĩ” và “Lời thật
khó nghe” mà nhiều vị ngôn sứ đã
bị người đương thời thù
ghét giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn
sứ nào được tiếp nhận
tại quê hương mình” tương tự câu “Bụt
nhà không thiêng” của người Việt chúng ta.
- C 25-27: + Tôi nói cho các ông
hay: Đức Giê-su muốn trình bày
tính phổ quát của ơn cứu độ,
nghĩa là ơn ấy được dành cho
mọi dân mọi nước, chứ không dành riêng
cho dân Ít-ra-en hay cho dân làng Na-da-rét. Trong
thời gian giảng đạo, Đức Giê-su
cũng thường đề cao đức tin
của các người dân ngọai như: khen viên
đại đội trưởng người Rô-ma
(x. Lc 7,9) ; Dạy môn đệ noi gương bác
ái của người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ; Khen
người đàn bà xứ Ca-na-an (x. Mt
15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo
thành Xa-rép-ta vượt qua cơn đói
kém: Ê-li-a là một ngôn sứ rất
nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ
chín trước công nguyên. Một bà góa
ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị
chết đói do trời hạn hán mất
mùa. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a
dạy mà bà này đã được hưởng
phép lạ làm cho hũ bột và bình
dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi
hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa
và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi: Ngôn sứ Ê-li-sa
là đồ đệ của ngôn sứ Ê-li-a, rất
nổi tiếng vì có khả năng chữa
bệnh cách lạ lùng. Tại xứ Xy-ri-a
có viên sĩ quan tên là Na-a-man bị mắc
bệnh phong cùi. Nhờ được một
nữ tì mách bảo, ông đã sang
nước Ít-ra-en tìm đến xin ngôn
sứ Ê-li-sa chữa bệnh. Nhờ tin vào
quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn vâng lời
dạy xuống sông Gio-đan tắm 7 lần nên ông đã
được phép lạ khỏi bệnh (x. 2 V
5,1-14).
- C 28-30: + Mọi người
trong hội đường đầy phẫn nộ:
Họ phẫn nộ vì Đức Giê-su
đã không thỏa mãn đòi hỏi muốn
được xem Người làm phép
lạ. Họ còn tức giận vì
Người đã đề cao dân ngoại hơn dân
Do thái được Đức Chúa ưu
tuyển. Họ ganh tị vì Người coi
trọng thành phố Ca-phác-na-um ngoại giáo,
hơn quê hương là làng Na-da-rét của
Người. Sự kiện này tiên báo
Người sẽ bị người ta chống
đối, mà ông Si-mê-on đã tiên báo (x. Lc 2,34).
Cuối cùng Người còn bị kết án chịu
chết trên cây thập giá nữa (x. Lc 20,15). +
Nhưng Người băng qua giữa họ
mà đi: Trước sự chống
đối của dân làng Na-da-rét, Đức Giê-su
đã vượt qua giữa họ mà
đi trên đường của Người,
là đường kết thúc tại thành
Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,33).
4. CÂU HỎI:
1) Tin mừng Lu-ca
cho biết khi ra giảng đạo Đức Giê-su
được bao nhiêu tuổi và người
đời nghĩ Người là con của ai
? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau
và có sứ vụ gì ? 3) Tại sao dân làng
Na-da-rét đòi Đức Giê-su làm phép
lạ cho họ xem và họ đã phản ứng thế
nào khi không được thỏa mãn ? 4) Hãy kể
ra một số trường hợp Đức
Giê-su coi trọng dân ngọai hơn dân Do thái ? 5) Khi nêu
ra hai phép lạ do ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã
làm cho hai người đàn bà thuộc dân
ngoại, Đức Giê-su muốn dạy điều gì
với người đồng hương Na-da-rét
? 6) Tại sao dân làng Na-da-rét nổi giận muốn
giết chết Đức Giê-su ?
II.SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời
Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỜI NÓI PHẢI ĐI
ĐÔI VỚI VIỆC LÀM:
GEORGE HERBERT vừa là một Linh mục,
lại cũng là một thi sĩ và một nhạc
sĩ nghiệp dư. Một hôm trên đường đến
tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một
người bị té ngựa nằm trên vũng
bùn, ông lập tức dừng xe lại, rồi cởi
áo dòng ra, xắn tay áo để đỡ người bị
té kia lên mình ngựa và còn giúp đưa hành
lý của người ấy lên lưng ngựa. Xong mọi
chuyện, ông mới tiếp tục đi đến phòng
hòa nhạc với bộ quấn áo nhếch
nhác lấm bùn.
Bình thường ông ăn mặc rất
sạch sẽ. Nhưng hôm nay thấy tay chân và quần áo
ông đều dính đầy bùn bẩn, nên bạn bè rất
ngạc nhiên. Khi nghe ông kể lại chuyện mình đã làm
dọc đường thì một trong các người bạn
không đồng ý vì cho rằng việc đó không phải
là trách nhiệm của ông và ông không cần phải
làm như vậy. George Herbert đã trả lời
như sau : “Tôi thường cầu nguyện cho những
người nghèo khổ. Nhưng mãi đến hôm nay
tôi mới có dịp giúp đỡ họ. Nếu khi
nãy không ra tay trợ giúp thì tôi đã không làm theo
lời mình cầu nguyện, giống như cây đàn
chưa được lên dây cho đúng cung vậy.”
Cần tránh thái độ giả đạo
đức của bọn biệt phái đã
bị Chúa Giê-su cáo trách : “Các kinh sư và các
người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy,
tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ,
còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ
nói mà không làm” (Mt 23,2-3).
Thánh Giacôbê thì nói : “Đức
tin mà không có việc làm là đức tin chết”. Việc
bác ái là cách biểu lộ đức tin
rõ nét nhất. Thánh Phao-lô tông đồ
cũng dạy về giá trị của lòng
mến: “Đức Mến đích thực thì không ghen
tương, không vênh vang, không tự đắc”…“Giả
như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố
thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu
đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng
ích gì cho tôi”.
2) SỨC
MẠNH CỦA SỰ THẬT.
Thôi Trữ là
một quyền thần nước Tề, định
giết vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta
cho mời các quan chức triều đình
đến tư dinh để bàn mưu tính
kế và uống máu ăn thề. Sau khi nghe Thôi
Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua,
các quan chức triều đình có
mặt đều tỏ ra khiếp sợ trước
uy thế của Thôi Trữ và răm rắp
nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm
nhiên tự tại và không mở miệng thề
hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ
bảo Án Tử rằng: “Nếu ngươi
theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được
ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước
cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập
tức bị giết !”. Trước khí
thế của quân phản loạn, Án Tử
vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời:
“Lấy cái lợi để nhử và
bắt người ta chống lại Quân
vương là bất trung. Lấy binh khí
để hiếp đáp làm cho lòng
người sợ hãi phải nghe theo mình
là thất đức. Giết thì giết! Ta
đây quyết không làm theo việc bất trung thất
đức của ngươi đâu!”. Nói xong
Án Tử đứng dậy ung dung ra về,
thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh
cho quân lính ngăn lại và giết hại như
đã đe trước đó.
Câu chuyện trên cho thấy những
lời nói đúng đắn cũng
có sức mạnh chống lại được
với những kẻ gian ác. Những
lời đó mang tính tiên tri mà mỗi
tín hữu chúng ta đều có thể
thực hiện được trong cuộc
sống hằng ngày,
3) CẦN
KHÔN NGOAN KHI SỬA LỖI NOI GƯƠNG SA-MU-EN (x.II Sm 12,1-13):
Sau khi vua Đa-vít phạm tội ngoại tình với nàng Bát-se-va
vợ của tướng U-ri-gia, và vua ngầm hạ
lệnh cho đại tướng Gio-áp mượn tay quân
địch ngoài mặt trận giết chết vị tướng
tài này, ngôn sứ Na-than đã được
Đức Chúa sai đến cáo trách tội ác
vừa ngoại tình lại vừa “giết
chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít. Ngôn
sứ Na-than đã vào đền vua và đã
trình lên một câu chuyện hư cấu về một
nhà phú hộ có 10 ngàn con chiên, nhưng sai gia nhân đến
nhà anh nông dân nghèo chỉ có một con chiên cái duy
nhất mà anh rất mực thương yêu, rồi bắt
con chiên ấy về làm thịt để đãi bạn
bè đến chơi. Vua Đa-vít sau khi nghe kể về
hành động thất nhân ác đức của tên phú
hộ đã tỏ thái độ tức
giận với tên phú hộ, bấy giờ Na-than
mới nói: “Tên phú hộ gian ác ấy chính là đức
vua. Vua đã phạm tội ngoại tình với nàng Bát-se-va
rồi còn giết chồng là tướng U-ri-gia để
đoạt vợ của ông ta”. Nhờ cách cáo tội khôn
ngoan này mà Vua Đa-vít đã nhận ra tội lỗi to
lớn của mình và đã hồi tâm sám hối.
4) ĐỪNG COI
THƯỜNG NHỮNG HỒNG ÂN HIỆN TẠI
CỦA CHÚA:
Có một nhà hiền triết nọ
chuyên làm cố vấn giúp đỡ những
ai buồn phiền chán nản. Bất cứ ai đến xin
cũng đều được nhà hiền
triết cho lời khuyên hữu ích.
Một hôm, một người chủ
xưởng may đến xin nhà hiền triết
giúp giải quyết khó khăn gặp phải
trong gia đình. Gia đình ông gồm 9 người:
hai vợ chồng và 7 đứa con trai nhỏ.
Họ sống chen chúc nhau trong một căn chòi nóng
bức chật chội. Do không có chỗ chơi nên
lũ trẻ rủ nhau vào vui đùa trong xưởng
may tương đối rộng rãi. Bà mẹ luôn
miệng la hét lũ trẻ để giữ
trật tự. Còn ông chủ phần lo sản
xuất quần áo,
phần bị lũ con la hét quậy phá nên tâm
trí không lúc nào được thanh thản.
Nghe hoàn cảnh của gia
đình ông chủ xưởng may, nhà hiền triết
liền cho lời khuyên như sau:
- Ông hãy ra chợ mua một con dê đực
và mang về cột nó trong xưởng may để
lũ trẻ hết chỗ quậy phá.
Tuy không hiểu hết lý do,
nhưng ông chủ xưởng may vốn tin vào khả
năng của nhà hiền triết, nên vâng lời ra
chợ mua về một con dê đực và cột
nó vào góc xưởng may khiến lũ
trẻ không còn chỗ vui chơi quậy phá. Nhưng
bây giờ lại đến lượt con dê
đực. Không những nó phóng uế bừa
bãi bốc mùi hôi thối trong xưởng may,
mà miệng nó không ngừng kêu “be be”… khiến ai
nấy đều cảm thấy rất khó chịu !
Mấy hôm sau, ông chủ
xưởng may lại đến than phiền về
sự quậy phá của con dê với nhà hiền
triết và lần này ông lại cho lời
khuyên:
- Ông hãy về nhà và mau mang con
dê ra chợ bán đi cho người khác.
Nghe vậy, ông chủ xưởng
may cảm thấy vui như vừa được
giải thoát khỏi gánh nặng. Ông vội
về dắt con dê ra chợ bán, đang lúc bà vợ
cùng gia nhân làm tổng vệ sinh để tẩy
uế nhà xưởng. Bảy đứa nhóc sau khi
thấy xưởng may sạch sẽ, lại rủ
nhau vào trong xưởng vui đùa la hét như
trước. Có điều bây giờ tiếng
la hét của chúng không còn làm ông bố khó
chịu. Ông tự nhủ: dù sao, tiếng la hét của lũ trẻ cũng dễ chịu hơn nhiều
so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn
đáng ghét kia … Và từ ngày đó gia
đình ông chủ xưởng may lại được
yên vui hạnh phúc như trước.
3. THẢO LUẬN:
Trên đường rao giảng
Tin Mừng, Đức Giê-su đã luôn ưu
ái và đề cao dân ngoại hơn dân Do Thái.
Vậy noi gương Đức Giê-su, hôm nay chúng
ta nên đối xử thế nào với anh em
lương dân để giới thiệu Chúa cho
họ ?
4. SUY NIỆM:
1.
Đức Giê-su thi hành sứ vụ Thiên Sai tại Na-da-rét
và bị đồng hương chống đối:
Tin Mừng CN hôm nay
thuật lại: Trong Hội đường Na-da-rét, sau khi
đọc đoạn sách của Ngôn sứ I-sai-a về sứ
vụ Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su đã tuyên bố:
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị
vừa nghe” (Lc 4,21). Lúc đầu dân làng Na-da-rét thán phục
về tài ăn nói khôn ngoan lưu loát của Đức
Giê-su, nhưng rồi do thành kiến về nghề thợ
mộc thấp hèn và về gia thế tầm thường
của Người, nên họ đã không tin Người
là Đấng Thiên Sai. Họ đòi Đức Giê-su phải
chứng mình vai trò Thiên Sai bằng việc làm
phép lạ như đã làm tại thành Ca-phác-na-um.
Nhưng Người đã không làm phép lạ nào tại
đây vì họ cứng lòng tin. Đức Giê-su cho
biết sở dĩ dân
ngoại đã được hưởng phép lạ, vì họ
đã tin và đã làm theo lời vị ngôn sứ. Rồi
Đức Giê-su kết luận chua chát: “Không một
ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê
hương mình”. Nghe vậy, mọi người trong hội
đường đầy phẫn nộ vì họ nghĩ
Đức Giê-su coi trọng dân ngoại hơn dân Do thái, và
khinh thường người đồng hương.
Họ hè nhau lôi Người lên triền núi để xô
Người xuống vực, nhưng “người đã
băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
2. Sứ
vụ làm ngôn sứ của các tín hữu hôm nay:
Mỗi người
chúng ta nhờ phép rửa tội và thêm sức mà được
tham phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giê-su.
Để chu toàn được sứ vụ cao quý này,
chúng ta cần tránh và cần làm những gì?
-Cần tránh
thành kiến với tha nhân: Dân làng Na-da-rét do có
thành kiến về nghề nghiệp và gia cảnh của
Đức Giê-su, nên đã không tin vào sứ vụ Thiên Sai của
Người. Thành kiến là một thói xấu mà ai trong
chúng ta ít nhiều cũng mắc phải: Cùng một lời
nói hay việc làm do một người có địa vị
cao hay uy tín lớn nói thì được mọi
người coi trọng, đang khi nếu lời
nói đó do một người bình thường thì
sẽ bị mọi người coi thường.
-Cần tránh
thái độ ích kỷ cục bộ: Qua câu chuyện
hũ bột tại nhà bà góa nghèo thời Ê-li-a không bị cạn,
và bệnh cùi của viên quan ngoại giáo Na-a-man thời
Ê-li-sa được khỏi bệnh cách lạ thường,
Đức Giê-su cho thấy hết mọi dân tộc đều
được Chúa ban ơn cứu độ chứ
không dành riêng cho dân Do thái, miễn là họ phải có
lòng tin, thể hiện qua việc thực hành Lời Chúa.
Đức Giê-su muốn chúng ta hôm nay không đóng khung các họat
động truyền giáo hay việc chia sẻ bác ái
trong phạm vi hạn hẹp, mà phải sẵn
sàng mở rộng tình thương cho mọi người.
-Cần nói lời
Chúa cách trung thực: Làm ngôn sứ không dễ, vì phải nói
lời Chúa cách trung thực, dù sự thật thường hay
mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì chúng ta phải
trung thành nói lời Chúa và sẵn sàng đón nhận hậu
quả là có thể bị kẻ gian ác thù ghét
bách hại.
-Cần
dũng cảm bênh vực công lý: Làm ngôn sứ
đôi khi cũng phải lội ngược dòng. Chúng
ta cần tránh nghe theo dư luận xấu, cũng
không hùa theo số đông lầm lạc, mà phải
ứng xử khôn ngoan theo lời Chúa dạy. Điều
này đòi ta phải dũng cảm đứng về phía sự
thật và còn phải khôn ngoan để giữ hòa
khí với mọi người. Chính thái độ can đảm
và khôn ngoan dám bênh vực công lý này sẽ giúp người
đời nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như lời
Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi
trước mặt thiên hạ, để họ thấy những
công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của
anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. Phải thi hành sứ vụ
Ngôn sứ thế nào?
- Sứ vụ ngôn sứ không dễ thực hiện: Để
nói Lời Chúa cách hữu hiệu cho người
có lỗi, chúng ta cần sửa lỗi cách khôn
ngoan, theo cách ngôn sứ Na-than sửa lỗi vua
Đa-vít (x. II Sm 12,1-13).
- Cần sửa lỗi tha nhân như thế
nào? : Ngày nay, để việc sửa
lỗi đạt kết quả, chúng ta cần theo các
bước như sau:
Nhờ ơn Chúa giúp trước khi sửa
lỗi “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”
(Ga 15,8).
Cần tạo uy tín trước khi sửa lỗi,
là phải tự sửa lỗi mình
trước để tránh tình trạng: “Chân mình những
lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.
Cần sửa lỗi do động lực
tình thương chứ không do sự thù ghét.
Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc bọc
đường”, “khen trước chê sau”, “khen nhiều chê
ít”.
Cần sửa lỗi từng bước: Một
là chỉ nói riêng một mình với kẻ có lỗi; Hai là
mang theo một hai nhân chứng; Ba là đưa kẻ có lỗi
cố chấp ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ cố
chấp như dân ngoại và phó thác họ cho lòng từ
bi thương xót của Thiên Chúa (x. Mt 18,15-17).
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp
chúng con chu tòan sứ vụ rao giảng Lời Chúa trong xã
hội hôm nay. Để chu toàn sứ vụ ngôn sứ,
xin cho chúng con biết chuyên cần học sống Lời
Chúa tại nhà thờ, đọc câu Lời Chúa trong giờ
kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm
chứng cho “Sự Thật” (x Ga 14,6) bằng lối
ứng xử thân thiện và khiêm tốn phục vụ
những người đau khổ bất hạnh. Xin cho
chúng con luôn tin vào sức mạnh của sự thật
vì: “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32).
X)
HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|