THÁCH
THỨC
GIẢ HÌNH HỢM HĨNH QUÂN BIỆT PHÁI
XẢO QUYỆT MƯU MÔ LŨ QUỶ MA
Ác nhân luôn mưu mô những điều xấu xa, chỉ vì tư
lợi chứ không
vì công ích. Sự dã tâm
là ác ý, có ý “chơi khăm” người nào đó, “bằng mặt mà không bằng lòng”, trước mặt nói ngọt sớt như mía
lùi mà sau lưng bất ngờ
đâm thọc. Loại người
này được
gọi là “khẩu phật, tâm
xà”, miệng nam-mô mà
bụng một bồ dao găm, ác như
mãng xà độc hại, rất
đáng quan ngại!
Kẻ
dã tâm khôn ranh rất
tinh vi, vị kỷ mà không vị tha, chỉ tìm cách thỏa mãn tư lợi, còn ai ra sao cũng mặc, như người ta thường
nói: “Sống
chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.
Đó là dạng “nhiễm xạ”
tinh thần – cũng nguy hiểm như nhiễm chất phóng xạ thật. Kiểu như nhóm biệt phái giả hình, xét nét người khác để bắt bẻ, đả phá chứ không xây dựng.
Thách Thức
tương đương Thử Thách nếu đó là điều khó khăn, mức yêu cầu, sự trở ngại có thể khó nhận ra hoặc tiên liệu, những thứ đó thường vượt tầm khả năng
giải quyết. Đó là cuộc trải nghiệm quý
giá, là vốn sống, là ngọn lửa thử vàng của ý chí và tài thao lược. Để thấu hiểu và vượt qua thách thức, thậm chí biến thách thức thành cơ hội, điều cốt lõi là
bản lĩnh cá
nhân, nhưng tinh thần
và trí tuệ của tập
thể cũng hữu ích, có thể là lá chắn và thanh gươm giúp
chúng ta chiến thắng hoặc
thành công.
Thách Thức
tương đương Thách Đố nếu đó là kiểu gây hấn, chống đối người khác.
Kiểu này nguy hiểm vì “cái tôi” bắt đầu nổi dậy, đè bẹp sự khiêm nhường. Thường thì kẻ yếu thế lại muốn chứng
tỏ mình mạnh, giống như
kẻ kém võ lại thích
khua múa, kẻ ít chữ lại hay nói văn chương,
kẻ nghèo lại khoái phô trương,... Cứ tưởng Khôn mà hóa Khốn!
Kinh Thánh đã minh định: “Khôn ngoan đã
được tác
thành trước vạn vật,
sự hiểu biết anh minh đã có
tự muôn
đời” (Hc 1:4). Ai cũng được Thiên
Chúa ban cho sự khôn
ngoan, với mức độ
có thể khác
nhau, nhưng sự khôn
ngoan cũng vẫn cần được
trau giồi, và quan trọng
là cách sử dụng sự
khôn ngoan sao cho hợp
lý. Có Khôn rồi mà còn
phải Khéo nữa.
Ý thức
nghiêm túc, tác giả sách
Huấn Ca đặt vấn đề:
“Gốc rễ của khôn ngoan đã được mặc khải cho ai? Và những công trình kỳ diệu của khôn
ngoan, ai nào biết rõ?” (Hc
1:6). Và sau đó liền có câu
trả lời mạch lạc: “Sự
viên mãn của
khôn ngoan là KÍNH SỢ
ĐỨC CHÚA. Khôn ngoan lấy hoa trái của mình làm cho họ say sưa, lấy bảo vật của
mình chất đầy
nhà cửa họ,
đem sản phẩm của mình đổ đầy kho lẫm” (Hc 1:16-17). Kinh Thánh cũng đã xác
định nguồn gốc
của sự khôn ngoan: “Tất cả sự khôn
ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa,
và khôn ngoan vẫn ở với
Người đến muôn đời” (Hc
1:1).
Một
danh nhân nào đó xác định:
“Người khôn ngoan là người thấy cái gì
cũng mới lạ”. Thấy mới lạ không
là để tò mò,
mà để khám
phá và tìm hiểu thấu đáo.
Đó là con người trong cuộc
sống đời thường. Còn về tâm linh, người khôn ngoan là người biết kính sợ Thiên Chúa: “Lòng kính sợ Đức Chúa là
tuyệt đỉnh của
khôn ngoan, mang lại
bình an và sức
khoẻ dồi dào. Đức Chúa đã thấy và đã đếm khôn ngoan, Người đổ mưa am tường và hiểu biết của trí tuệ, nâng cao vinh dự của những kẻ gắn bó với khôn ngoan” (Hc
1:18-19). Sự khôn
ngoan rất cần trong
đời sống, nhưng còn càng cần hơn trong đời sống Kitô hữu.
Tuy nhiên, điều quan trọng là người khôn ngoan không cậy nhờ phàm nhân, mà chỉ cậy nhờ vào
Chúa. Họ tâm niệm và chân thành thân thưa: “Con
ẩn náu
bên Ngài, lạy Chúa,
xin đừng để con
phải tủi nhục bao giờ” (Tv 71:1). Chắc chắn họ sẽ không
phải hổ ngươi, vì
được Chúa
soi sáng và hướng dẫn.
Ngay trong những khi gặp thử thách, họ vẫn trọn niềm tín
nguyện: “Vì
Ngài công chính, xin cứu
vớt và giải
thoát con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài
nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành
trì để cứu độ
con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính
là Ngài” (Tv 71:2-3). Đúng như Thánh Phaolô xác
định: “Không
có gì tách được
chúng ta ra khỏi
tình yêu của
Thiên Chúa thể
hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng
ta” (Rm 8:39).
Phàm nhân luôn bị tác động bởi thất tình
(hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục). Đôi khi cầu nguyện mà có vẻ như không thấy “động tĩnh” gì, thế nhưng họ vẫn tin tưởng
và khôn ngoan, vẫn
vững tâm kiên trì: “Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ, khỏi móng
vuốt phường
nham hiểm và bọn
dã man. Vì lạy
Chúa, chính Ngài là Đấng
con trông đợi, lạy Đức Chúa,
chính Ngài là Đấng
con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân” (Tv
71:4-5). Và họ xác
tín từ những điều
xem chừng rất tự nhiên: “Từ thuở sơ sinh, con nương tựa
vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi” (Tv 71:6). Đó là niềm tín thác đích thực, chắc chắn Chúa
vui lòng và sẽ không
ngơ mãi, không nỡ để
họ phải thất vọng.
Tin là chấp
nhận hoặc từ chối. Làn ranh rất mong manh. Một niềm giữ vững
đức tin, họ hiên ngang vui mừng thể hiện niềm tin đó: “Miệng con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài
ban, ơn của Ngài,
nhiều khôn xiết kể! Con thuật lại bao chiến
công của Chúa,
nhắc nhở rằng:
chỉ mình Ngài chính trực công minh. Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này,
con vẫn truyền rao vĩ
nghiệp của Ngài” (Tv
71:15-17). Người biết
tín thác vào Chúa thì đúng là người khôn ngoan thực sự.
Hằng
ngày, mọi nơi và mọi lúc, chúng ta có được gì cũng đều là hồng ân Chúa ban. Quả thật, nếu xét
cho cùng, ngay những gì
chúng ta đang sở hữu cũng
không hoàn toàn thuộc
quyền mình, vì chúng ta có thể mất chúng bất kỳ lúc nào – kể cả sự sống. Thánh
Phaolô nói: “Trong các ân huệ
của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng
đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt
hơn cả” (1 Cr 12:31). Con
đường trổi vượt đó là
con đường khôn
ngoan luôn sáng rực ánh hồng ân huyền nhiệm.
Kinh Thánh đã xác định khôn ngoan là biết kính sợ Chúa, mà kính sợ Chúa thì phải biết yêu thương – tức là đức mến. Một hệ lụy lô-gích,
tính liên đới kỳ diệu.
Vừa như một cách định nghĩa và vừa là cách giải thích, Thánh Phaolô nói về đức mến: “Đức mến
thì nhẫn nhục,
hiền hậu, không ghen tương, không vênh
vang, không tự đắc,
không làm điều
bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy
điều chân thật. Đức mến tha thứ tất
cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả,
chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:4-7). Nghe có vẻ dài dòng, nhưng rõ ràng đến từng chi tiết. Đây là
chương nói về đức
mến rất tuyệt vời trong các thư của Thánh Phaolô. Quả thật, đức mến không
đơn giản như chúng
ta tưởng.
Như chúng ta đã biết, đức mến là một trong ba nhân đức đối thần (Tin, Cậy, Mến),
cả ba đều quan trọng, nhưng đức mến
quan trọng nhất, vì “đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13:8a). Thật
vậy ư? Chắc chắn đúng như vậy: “Ơn nói
tiên tri ư? Cũng chỉ
nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có
ngày sẽ hết. Ơn
hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn.
Vì chưng sự hiểu
biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng
có hạn” (1 Cr 13:8b-9). Lạ thật! Cái gì
cũng hữu hạn, nhưng
lòng yêu thương lại
vô hạn. Ác
nhân không hề có
lòng yêu thương, thế
nên họ ích kỷ và luôn tìm cách ghen ghét, mưu hại người khác,
tìm cách thách thức bất cứ
ai.
Đề
cập tầm quan trọng của đức mến, Thánh
Phaolô lý giải: “Khi cái
hoàn hảo tới thì cái
có ngần, có hạn sẽ biến đi. Cũng như
khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ
con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi
đã thành người
lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là
trẻ con” (1 Cr 13:10-11). Cách so sánh rất cụ thể, rõ
ràng và dễ hiểu.
Thánh Phaolô nói cả ba nhân đức đối thần quan trọng, nhưng
không phải vì vậy mà coi nhẹ các đức đối nhân – nghĩa là
chúng cũng không kém phần
quan trọng. Không ai tin cậy và yêu mến Thiên Chúa lại là người mưu mô, xảo quyệt, ác độc, nham hiểm, không
biết thương xót
đồng loại. Chỉ
có loài quỷ đội
lốt người mới như vậy.
Sống
yêu thương là thể
hiện đức tin, mà đức tin thì trừu tượng, nếu không
khéo sẽ hóa
thành ảo tưởng.
Thánh Phaolô cho biết:
“Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm
gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như
Thiên Chúa biết
tôi” (1 Cr 13:12). Và ngài tái xác định tầm quan trọng của đức
mến: “Hiện nay đức tin, đức cậy,
đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng
cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13:13).
Thách thức
liên quan kiêu căng. Trình thuật Lc 4:21-30 đề cập sự thách
thức của người Do Thái
đối với Chúa
Giêsu. Một lần tại
Hội đường, khi mở Sách Thánh gặp câu nói về Thần Khí, Chúa Giêsu nói với cử tọa: “Hôm
nay đã ứng nghiệm
lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Nghe vậy, mọi người đều
tán thành và thán phục
những lời hay ý đẹp thốt ra từ môi miệng Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu đúng là một “nhân vật đặc biệt nhất”, một
“dị nhân” chính hiệu, khiến ai cũng phải tâm phục và khẩu phục. Thế nhưng vẫn có những kẻ ác ý xấu xa muốn hại Ngài. Bản chất khó dời!
Chúa Giêsu biết bụng dạ xấu xa của họ
nên Ngài nói với họ: “Hẳn
là các ông muốn
nói với tôi
câu tục ngữ: Thầy
lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì
chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy
làm tại đây, tại quê ông xem nào!”. Người ta có dã tâm không phải vì Chúa Giêsu làm gì sai trái,
mà vì tính đố kỵ, thói
ghen ghét, không muốn người
khác hơn mình, sợ
mình lép vế, quen thách
thức và ưa thọc gậy bánh xe. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên nói tiếp: “Tôi bảo thật các
ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương
mình”. Thế kỷ XXI rồi
mà câu nói này vẫn
đúng, bởi vì người ta khó có thể chấp nhận tài
năng của những người
cùng quê hương với
mình!
Họ
im lặng, không đối
đáp được
câu nào. Đuối
lý, cụt hứng, hết
cãi. Mà còn nói gì được
nữa chứ? Chúa Giêsu liền
nói thẳng một hơi:
“Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào
thời ông
Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu
tháng, cả nước phải
đói kém dữ dội, thiếu gì bà
goá ở trong nước
Ít-ra-en; thế
mà ông không được
sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai
đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en,
nhưng không người
nào được
sạch, mà chỉ
có ông Na-a-man, người
xứ Xy-ri thôi”. Quá rõ, thật thấm thía và đau điếng, trúng tim đen quá mà! Chẳng ai dám lý luận chi nữa!
Quái gở!
Lũ ác nhân lật mặt
như trở bàn tay, mới
khen nức lòng mà lại
chống đối ngay, bằng chứng là lời kể của Thánh
Luca: “Nghe vậy, mọi
người trong hội đường đầy phẫn
nộ. Họ đứng dậy, lôi
Ngài ra khỏi thành –
thành này được
xây trên núi. Họ
kéo Ngài lên tận
đỉnh núi để xô Ngài xuống vực” (Lc 4:28-29). Đúng là quá đểu – đểu thật chứ không
đểu giả!
Tuy nhiên, chính những con người đểu cáng
đó, dã tâm và nham hiểm,
cũng chẳng làm gì được người ngay lành,
chính trực. Thật vậy,
Chúa Giêsu thấy họ phẫn
nộ mà Ngài vẫn thản nhiên
“băng qua giữa họ mà
đi” (Lc 4:30). Chắc hẳn lúc
đó lũ “quỷ sống” ấy
muốn lộn ruột gan và phát điên lên được. Ngày nay, những người mưu mô
nham hiểm với người
khác cũng vậy thôi.
Loại ác nhân như vậy ở đâu cũng có, chẳng trừ nơi nào, y
như ma quỷ có mặt mọi nơi để rình rập người tốt vậy. Chúng ẩn náu và hóa trang rất tinh vi bằng các loại trang phục nhân
nghĩa hào nhoáng rất bắt mắt:
“Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2
Cr 11:14).
Có nhiều
mối phúc, một
trong các mối phúc
đó liên quan cách sống
khôn ngoan và hướng
thiện: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác
nhân, chẳng bước vào
đường quân tội lỗi, không
nhập bọn với
phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng
vui thú với lề luật
Chúa, nhẩm đi nhẩm
lại suốt đêm ngày” (Tv
1:1-2).
Lạy
Thiên Chúa nhân lành chính trực, xin giúp con biết ghê tởm chính mình, nhưng biết cảm thông
và yêu thương mọi
người, nhất là những người hèn mọn, vô danh tiểu tốt, cô
thân cô thế. Xin hoán cải và biến đổi con theo Thánh Ý
Ngài. Con cầu xin nhân
danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng Cứu
Độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|