DƯỚI BÓNG THÁI
SƠN.
Như dân Do Thái xưa, khi
đã được định cư nơi Đất
Hứa, ôn lại lịch sử, họ mới dần
dần nhận ra bàn tay Thiên Chúa dẫn đưa họ
Xuất hành vượt qua Biển Đỏ, nhiều lúc
chúng ta cũng cần ôn lại lịch sử đời
mình để cảm nhận sâu xa tình Chúa yêu ta. Thật lạ lùng, chúng ta không bao giờ khám phá
hết để tạ ơn cho đủ Tình Ngài yêu
thương và quan phòng mình.
Tôi là một người
ngoại đạo đã được ơn biết Chúa
và được rửa tội tại Trung tâm Đắc
Lộ, Dòng Tên Saìgòn năm 1976. Tôi lớn lên trong hoàn
cảnh đất nước chiến tranh, và đặc
biệt trải qua biến cố lịch sử 1975.
Năm ấy, tôi còn là sinh viên Đại học
Dược khoa. Thời giờ rảnh rỗi khi
trường học đóng cửa năm 75, và nhất là
do sự quan phòng và tình yêu của Cha trên trời, tôi vào Trung
Tâm Đắc lộ Saigon để học sinh ngữ . Từ học Anh, Pháp văn, tôi tò mò xin hoc
Đạo với một Linh mục thừa sai
người Tây ban nha, Cha Julian Elizalde. Một
chân trời mới mở ra. Một khát
khao sâu xa và tiềm ẩn được đáp lại.
Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Đấng sáng tạo con
người và vũ trụ được truyền
giảng một cách hết sức sống động mà
đơn sơ qua Cha Elizalde. Từ tò mò, chỉ muốn
thử, giờ đây tôi tin thật. Tôi xin chịu phép
rửa tội tháng 6 năm 1976 mà không hề ý thức rõ
rằng mình rồi sẽ phải đương
đầu với nhiều thử thách.Tôi muốn cùng
với Chúa đi vào con đường mới…..
Là những ngưòi sống
trong truyền thống Phật giáo từ lâu đời, cha
mẹ tôi không chấp nhận cho tôi theo
Kitô giáo. Sau nhiều thuyết phục và răn đe không
thành, cha mẹ tôi từ bỏ tôi.
Tôi
rời nhà ra đi. Lần Xuất
hành thứ nhất trong đời tôi. Tôi đến
làm việc tại Phòng Y Tế Thành phố Mỹ tho (nay
thuộc tỉnh Tiền Giang ) năm
1978. Là con gái, từ tấm bé sống chung
với cha mẹ và anh chị em, chưa hề xa nhà, tôi run
sợ trên bước đường phiêu lưu. Nhưng
cũng chính trong thời gian này mà Chúa tỏ rỏ tình yêu và
sự quan phòng của Ngài từng bước trong cuộc đời tôi.
Không
bao giờ tôi quên được.
Dạo ấy, tôi ra đi hoàn toàn tay trắng.
Tôi phải ăn cơm tập thể, và ở khu nhà
tập thể với các nhân viên khác của Phòng Y Tế. “Nhà
tập thể” là
một căn phòng rộng, trống trơn, chỉ có
một tấm ngăn đơn sơ bằng phên
để phân chia hai bên nam nữ. Buổi tối, tôi không
tài nào chợp mắt được, phần vì nhớ nhà,
phần vì các nhân viên nam nữ lợi dụng bóng đêm và
sự phân cách không chặt chẽ để làm các việc
đồng lõa với tối tăm. Ngay hôm sau, tôi đi
rảo quanh khắp cơ sở của Phòng Y tế, và tìm
ra một chỗ khả dĩ có thể làm nơi ngủ
buổi tối. Đó là một căn gác xép,
có lẽ bỏ hoang lâu ngày, bụi và màng nhện giăng
khắp nơi. Chỉ có một ngọn
đèn nhỏ tít tắp ở xa. Tôi
mừng vô cùng. Chỗ này yên tĩnh, biệt lập,
nếu quét dọn đi, sẽ có thể là nơi riêng
tư của tôi, tôi có thể đọc sách, cầu
nguyện, và ngủ qua đêm.
Nghĩ
là làm. Tối hôm sau tôi đã có
thể lên căn gác xép thân yêu của tôi, hy vọng sẽ
được an giấc nơi đây. Nhưng các nhân viên khác đâu dễ để tôi
“thoát ly” như vậy. Họ xúm nhau
dọa tôi đủ điều. Tôi vẫn còn
thấy đâu đây gương mặt tinh quái với
đôi mắt nhỏ xíu của chị Diệu, y tá:
- Mày muốn lên lầu đó
ngủ hả ? Ma không à. Ma nhiều lắm !
Như để
phụ họa thêm cho lời khẳng quyết của
chị ta, anh Tư Chí, y sĩ bộ đội cũng thêm
vào:
- Hồi
đó chiến tranh, đánh nhau ở khu vực này, lính
chết nhiều lắm. Ma tùm lum (!) trên lầu đó.
-
Mày mới tới nên
không biết đó thôi, ma về nhát người hoài hà. Nó
đánh đu trên cây mận trước cửa, dòm vô mày cho
coi !
Tôi cũng khá nao núng, nhưng
không thể chùn bước được. Phần vì
tự ái, phần vì tôi thấy mình không thể ngủ
nơi căn phòng tập thể này mãi được. Và các lời đe dọa của họ có hiệu
quả thực. Chút lòng trẻ con thơ ngây, nhát
sợ vẫn còn ở trong tôi. Thêm nỗi
nhớ nhà, tôi tủi thân khóc một mình hoài. Tuy nhiên,
Ơn Chúa khiến tôi không hế hối hận về
quyết định ra đi của mình, và nhiều năm
sau nghĩ lại, tôi vẫn thấy chọn lựa
của mình là đúng, và cũng ngạc nhiên sao lúc ấy,
một đứa con gái yếu đuối như tôi
lại dám cả gan quyết định chuyện
“động trời” như thế. Buổi
tối, khi ánh trăng xuyên qua phên hẹp, vẽ những
hình ma quái trên tường làm tôi sợ chết
điếng. Rồi những ngày mưa, tiếng ếch
nhái, ễnh ương từ bãi cỏ rậm rạp phía
dưới kêu ộp oạp, cũng làm tôi toát mồ hôi . Những lúc ấy, phải tin chắc
chắn có một Đấng Thiên Chúa rất yêu
thương luôn ở cạnh tôi, Ngài thức để
canh cho tôi ngủ, tôi mới yên tâm an
giấc.
Mấy
nhân viên đã dọa dẫm tôi khi trước, thấy tôi
vẫn bình yên vô sự sau nhiều tuần, thì họ thôi,
không dám dọa tôi nữa, và đều nói :
“ Con nhỏ này chì thiệt !”
Tôi không thể chia sẻ với họ
được, nhưng tôi biết tôi hoàn toàn yếu
đuối và nhát sợ. Tôi biết sức mạnh của
tôi do tự nơi đâu. Và cũng chính trong thời gian
hoàn toàn cô đơn, sống một mình nơi đất
lạ ấy, bị tách ra khỏi tất cả các bao
bọc, che chở về vật chất và tinh thần, tôi
cảm nhận được bàn tay Chúa yêu thương
săn sóc. Trong âm thầm, Ngài đã dạy tôi biết bao
điều kỳ diệu. Đời sống nội tâm
của tôi được hình thành và phát triển trong
thời gian “lưu đày Babylone” này. Tôi thâm cảm lời Thánh
Phaolô trong thư Philipphe: “Tôi xem tất
cả moi sự là thiệt thòi, so với mối lợi
tuyệt vời là được biết Đức Kitô
Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi
coi tất cả như đồ bỏ, để
được Đức Kitô.”
Tôi
lại làm một Xuất hành thứ hai, từ Việt Nam
qua Mỹ với hai bàn tay trắng, khi
tóc đã bắt đầu điểm sương.
Đến một xứ được mệnh danh là “ xứ sở của những cơ hội
thăng tiến,” (place of opportunities ) tôi đắc
thủ mau chóng và dễ dàng các
thành công về tài chánh và địa vị xã hội. Tôi sinh
ra kiêu ngạo, chạy theo vật chất và quên dần các
tâm tình thiêng liêng mà các cha Dòng Tên đã dạy dỗ tôi khi
còn ở Việt Nam, cũng như những tình cảm cao
đẹp Thiên Chúa đã gieo trồng nơi tôi.
Nhưng Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn kiên
nhẫn cảm hóa và tìm kiếm con chiên lạc.
Sống trong đầy đủ tiện nghi vật
chất mà tâm hồn tôi vẫn trống rỗng, chán
nản, không thấy lẽ sống, và nhiều khi tôi
tự hỏi “ Hạnh phúc ở
đâu?” Đây cũng là tâm trạng của
nhiều người sống ở xứ vật chất
xa hoa này. Tỷ lệ số người tự
tử, bị bệnh trầm uất (depression), điên
loạn…vì thiếu lẽ sống rất cao và cứ
mỗi ngày một gia tăng.
Thiên Chúa mời gọi tôi quay về với Ngài.
Tôi chợt nhận ra tôi cần Ngài biết
bao. Tôi ý thức sâu xa thế nào là “Ơn
Cứu độ.” Thiếu Ngài, con người
sẽ trống vắng, bơ vơ mà
không một điều kiện vật chất nào có
thể lấp đầy nổi.
Tháng
1/2006, tôi bay đến Orange County, miền Nam
California
để dự Linh thao với cha Elizalde. Đây
là lần đầu tiên tôi gặp lại cha sau 30 năm xa
cách. Cha vẫn dáng người cao va
thanh mảnh, thời gian đã làm tóc cha bạc trắng,
nhưng tinh thần cha còn rất minh mẫn. Cha
gọi tên tôi. Tôi mừng lắm, nhưng vẫn làm
bộ trách cha:
-
Cha bỏ con. Cha
rửa tội cho con xong cha về nước, giống
như một người mẹ sinh con mà không nuôi.
Đứa bé ấy khóc quá, và các cha Dòng Tên tội
nghiệp, ẵm nó về nuôi và dạy dỗ.
Cha cũng hóm hỉnh chọc
lại:
-
Đêm nay cha sẽ
khóc nhiều lắm à. Thế đứa bé ấy lớn
lên có ngoan nhiều hong ? (vẫn
cái giọng nói tiếng Việt với accent rất dễ
thương của cha !)
-
Dạ ngoan, mà ngoan ít
lắm,vì nó mồ côi mẹ. Và lớn
lên, nó thương các vú nuôi hơn mẹ, vì mẹ đã
bỏ nó mà đi, 30 năm không ngó ngàng gì đến nó…..
Tôi suốt đời phải
tri ân Chúa đã cho tôi được khai tâm với cha
Elizalde, đã cho tôi được sinh ra và nuôi lớn lên
trong Dòng Tên. Tinh thần truyền giảng và sống
đạo của các cha, tình yêu, sự nâng đỡ
của các ngài đã ảnh hửơng sâu đậm
đến đời sống tôi khi còn ở trong
nước cũng như khi tôi đang sinh sống ở
hải ngoại.
Năm mươi năm Dòng Tên
trở lại và hiện diện ở Việt Nam:
Năm mươi năm hồng ân Thiên Chúa ban cho
đất nước và Giáo hội Việt Nam
chúng ta. Biết bao đóng góp về tinh
thần và thiêng liêng của nhà Dòng cho Giáo hội và xã
hội. Biết bao linh hồn được nuôi
dưỡng nhờ các bí tích và lời truyền giảng,
cùng gương sống của cộng đoàn Dòng Tên. Tôi
chỉ muốn nói lên chứng từ đơn sơ của chính mình trong niềm cảm
tạ Chúa và lòng biết ơn của mình với Dòng Tên Việt
Nam.
Tôi hãnh diện được là một người con
của nhà dòng.
Không thể nào kể cho
hết ân sủng Chúa đã ban cho tôi trong suốt
đời tôi, có ơn tôi nghiệm thấy, còn rất
nhiều ơn, tôi không nhận ra, tôi đều muốn cám
ơn Ngài tất cả.
Thiên Chúa là Cha cao cả, mà
lại thật gần và hết sức yêu thương
từng người chúng ta. Khi
đã được nếm cảm mật ngọt tình
Ngài, tôi không còn thiết tha với điều gì khác
nữa. Tôi muốn bỏ hết
để chỉ ngồi dưới chân Ngài. Thế
giới chung quanh tôi mang màu sắc
tươi thắm, chỉ vì trái tim tôi đã
được đổi mới.
Tình Cha như Thái Sơn hùng vĩ và bền vững. Thế giới
bể dâu sẽ qua đi, nhưng tình Cha tồn tại
thiên thu.
Cha yêu quý, Dưới Bóng Thái
Sơn, con được an toàn, con được yêu
thương, nhưng con lại rất sẵn sàng ra đi,
vào nơi gió cát để rao truyền Danh Cha, để làm
cho nhiều người nhận biết và yêu mến Cha.
California,
mùa thu 2006.
Teresa Lệ Dung Vũ
|