THIÊN
TỬ
VI HÀNH
(Lễ
Giáng Sinh – lễ
vọng)
Vi hành là cổ ngữ, thường
nói về vua chúa cải trang để đích thân đến
gặp gỡ dân và nghe họ trình bày rõ sự tình. Tại
sao vua phải vi hành? Bởi vì các quan lại thường
“làm láo mà báo cáo hay”. Vua chúa vi hành để biết lòng dân và
có biện pháp trừng trị đích đáng đối với
lũ quan lại hại dân hại nước. Vua chúa
đích thân vi hành mới thực sự là thiên tử, là
người thương dân yêu nước, nếu không thì
chỉ là bọn sâu bọ đục khoét công quỹ và hút
máu nhân dân mà thôi. Ngày nay có quá nhiều loại “sâu bọ” và
“đỉa đói” như vậy, cướp công khai và
cướp đúng quy trình theo sách lược!
Ngày xưa, nhà vua muốn cải trang
để không ai nhận ra, chứ đi đến đâu
cũng cờ rợp trời, trống chiêng inh ỏi, tiền
hô hậu ủng, ai cũng biết trước thì bọn
quan lại sâu bọ sẽ chuẩn bị báo cáo tỏ
tường theo đúng quy trình và đúng tiêu chuẩn, còn gì
là sự thật? Đời và đạo cũng thấy
những cảnh tượng tương tự. Sự thật
dễ mất lòng, và rồi kẻ đau khổ vẫn là
đám dân đen mà thôi. Thế
nên Thiên Tử phải
vi hành!
Cuộc
vi hành của Thiên Tử là chuyến vi hành độc đáo nhất – cuộc vi hành đó là cuộc nhập thể và nhập thế của Thánh Tử Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên
Chúa. Cuộc vi hành
đó đã được
tiền định và được chuẩn bị từ ngàn
xưa...
Bắt
đầu từ cuộc truyền tin cho Trinh Nữ Maria, và có
liên quan một người công
chính – Đức Thánh
Giuse. Biết tin hôn
thê Maria mang thai, Giuse định
bỏ trốn, nhưng được sứ thần cho biết
nguyên nhân và động
viên: “Đừng
ngại nhận Nàng, vì thai là do quyền phép Chúa Thánh Thần”. Giuse
an tâm đón nhận Maria. Lời
động viên luôn cần
thiết khi có điều
gì đó quan trọng
mà chúng ta cảm thấy
e ngại, thiếu tự tin, hoặc trong tình
huống tình ngay lý gian.
Lời
động viên liên quan lòng can đảm. Giờ đây, chúng ta đang
ở vào những giây phút cuối cùng của Mùa Vọng, chúng ta cần duy trì lòng can đảm để sống cho trọn nỗi
mong chờ trong niềm hy vọng, vì Con Thiên Chúa sắp giáng sinh cho chúng ta và ở với chúng ta để chia vui sẻ buồn của kiếp
người với chúng ta.
Có nhiều
thứ phải làm trong Mùa Vọng. Kinh Thánh cho biết đã có những nhân vật quan trọng là các mẫu gương điển hình
cho chúng ta về cách sống Mùa Vọng. Đó là ngôn sứ Isaia, người “mở đường”
Gioan Tẩy Giả, ông già Simêon, bà tiên tri Anna,… đặc biệt là Đức Giuse và Đức Maria. Các vị này đã can đảm sống trọn Mùa Vọng và đã được mãn nguyện. Hãy tự nhủ cố gắng tỉnh thức
để sống trọn Mùa Vọng này, kể cả Mùa Vọng của cuộc đời riêng
và Mùa Vọng của ngày
Chúa Giêsu quang lâm.
Từ
ngàn xưa, ngôn sứ
Isaia đã xác định: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ KHÔNG nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông,
ơn cứu độ của
thành rực lên
như ngọn đuốc.
Rồi muôn dân sẽ ĐƯỢC chiêm
ngưỡng đức công
chính của ngươi, mọi
đế vương sẽ được ngắm nhìn
vinh quang ngươi tỏ
rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa
đặt cho.
Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng
trong lòng bàn tay Đức
Chúa, sẽ là mũ
triều thiên
vương giả
Thiên Chúa ngươi cầm
ở tay” (Is 62:1-3). Mùa Vọng là lời nhắc nhở: Quyết tâm
KHÔNG lùi bước để
ĐƯỢC điều tốt lành. Các điều đó chắc chắn xảy ra ngay khi Con Thiên
Chúa giáng sinh. Đó là hồng
ân vô cùng lớn lao bởi
lòng thương xót của
Thiên Chúa, chứ không
phải vì công trạng của chúng ta.
Đấng
Emmanuel là Thánh Tử Giêsu –
Vua Chân Lý và Công Lý, chính Ngài đích thân đến cứu thoát chúng ta. Khi đó,
chúng ta sẽ được
phóng thích, thoát mọi
nỗi sầu khổ đúng theo giao ước: “Chẳng ai còn
réo tên ngươi là đồ-bị-ruồng-bỏ!,
xứ sở ngươi hết bị tiếng là phận-bạc-duyên-đơn,
nhưng ngươi được gọi là ái-khanh-lòng-Ta, xứ sở ngươi nức tiếng là
duyên-thắm-chỉ-hồng.
Vì ngươi sẽ
được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài
trai sánh duyên cùng thục
nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới
ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa
ngươi thờ” (Is 62:4-5). Kinh Thánh có cách ví von rất thực tế, không cầu kỳ, để chúng
ta dễ hiểu theo trí tuệ hữu hạn của loài
phàm nhân.
Và cũng từ ngàn xưa, chính Thiên Chúa
đã phán hứa: “Ta đã
giao ước với
người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta, rằng: Dòng
dõi ngươi, Ta thiết
lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi,
Ta xây dựng qua muôn thế hệ” (Tv 89:4-5). Vì yêu thương, Thiên
Chúa luôn muốn mọi điều
tốt lành cho những ai tin kính
Ngài, và điều gì
được Ngài hứa thì sẽ trở thành hiện thực. Luôn chắc chắn như vậy. Do đó, niềm tin và lòng trung thành rất quan trọng trong cuộc đời
mỗi chúng ta. Tin là một nhân đức và một mối phúc, hoàn toàn khác với sự ảo tưởng hoặc cuồng
tín.
Tin là chấp
nhận vô điều
kiện, nhưng không hề
mù quáng. Theo Thánh GM TS Augustinô, đức tin không ngược lại lý trí. Đức tin có trước lý trí, vượt trên lý trí, kích hoạt trí tuệ tiếp tục phần việc của
nó. Theo Thánh LM TS Tôma Aquino, lý trí bẩm sinh đòi hỏi sự hướng đạo và hỗ trợ của đức tin để
đạt được chân lý một cách trọn vẹn, nghĩa là
đức tin cần có cả trí tuệ lẫn ý chí. Mở đầu thông điệp “Fides et Ratio”, Thánh
GH Gioan Phaolô II nhận định: “Đức
tin và lý trí được ví như đôi cánh giúp
tâm trí con người
vươn cao lên trong sự chiêm nghiệm chân lý”.
Rất
rạch ròi, Thánh Vịnh
gia cho biết: “Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô; nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy Chúa. Nhờ được nghe danh Ngài, họ suốt ngày hớn hở; bởi vì
Ngài công chính, nên họ
được hiên ngang” (Tv
89:16-17). Thật hạnh phúc
khi chúng ta có Thiên Chúa luôn ở
với chúng ta. Điều này càng rõ ràng hơn khi
chúng ta biết chắc rằng
đêm nay chúng ta sẽ
được đón tiếp Con Thiên Chúa trở nên giống chúng ta về mọi lĩnh vực, chỉ trừ
tội lỗi. Ngài yêu thương chúng ta quá đỗi, đến nỗi muốn nên giống chúng ta để chia sẻ mọi thứ với chúng
ta.
Ôi, đúng là niềm hạnh phúc thực sự quá lớn, niềm vui cứ nhân
lên, vì chúng ta được
trở nên con cái của Thiên
Chúa: “Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ,
là núi đá cho con được cứu độ!” (Tv 89:27). Thánh Gioan đã xác định: “Chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà
thực sự chúng
ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1), và chính Thần Khí chứng thực điều đó (x.
Rm 8:16). Đó là sự thật,
đừng ngại khi chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, là Thân Phụ: Abba! Tuy nhiên, được lãnh nhận bao điều tốt lành rồi, chúng ta không thể vô ơn, mà phải có nghĩa vụ đối với Ngài,
nghĩa là chúng ta phải
quyết tâm “yêu thương Người đến muôn thuở và thành tín giữ giao ước với Người”
(Tv 89:29). Đó là điều hoàn toàn hợp lý! Người Việt chúng ta cũng nói rằng “ăn cây nào, rào cây nấy”, hoặc “ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”.
Như lời
nhắc nhở, Thánh Phaolô cũng đã xin mọi người lưu ý: “Thiên
Chúa của dân
Israel đã chọn
cha ông chúng ta, đã làm cho dân này thành một dân lớn trong thời họ cư ngụ ở
đất Ai Cập, và đã giơ cánh tay mạnh mẽ của Người mà
đem họ ra khỏi đó” (Cv
13:16-17). Tất cả chúng
ta đều là con
cháu, là hậu duệ, cũng
được thừa kế gia nghiệp của tiền
nhân trong hồng ân
Thiên Chúa, đặc biệt
là mầu nhiệm cứu
độ, khởi đầu từ mầu nhiệm giáng
sinh. Điều đó sắp được ứng nghiệm, vì
không lâu nữa, ngay trong đêm
nay Đấng Emmanuel sẽ
hóa thành nhục thể,
mặc xác phàm nhân như chúng ta vậy.
Hành trình Mùa Vọng của chúng ta sắp hoàn thành, hãy cố gắng thêm chút nữa thôi. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Sau khi truất phế
vua Sa-un, Người đã cho ông Đa-vít xuất hiện làm
vua cai trị họ. Người
đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng
Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. Từ dòng
dõi vua này, theo lời
hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu
Độ là Đức Giêsu. Để dọn đường cho Đức
Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Israel chịu phép rửa tỏ lòng sám hối” (Cv
13:22-24). Điều đáng lưu ý là khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gioan đã tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa
Đấng ấy đến
sau tôi, và tôi KHÔNG ĐÁNG cởi dép cho Người” (Cv
13:25). Sự khiêm nhường
của ngôn sứ
Gioan Tẩy Giả quá tuyệt vời. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tự hạ như vậy, không
chỉ tự hạ trước Thiên
Chúa mà trước mọi người
– bất kỳ ai, kể cả người “nhỏ”
hơn mình.
Trình thuật
Mt 1:18-25 nói về
cuộc truyền tin cho Người Công
Chính Giuse (tương tự
Lc 2:1-7). Thánh sử
Mát-thêu cho biết gốc tích của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa: Đức Maria, mẹ
Người, đã thành hôn với Đức Giuse. Nhưng trước
khi hai ông bà về chung sống,
Đức Maria đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Đó là lý do khiến Đức Giuse quan ngại!
Ôi chao, đúng là tiếng sét đánh ngang tai, một tin động trời quá
đỗi. Chắc chắn
Đức Giuse cũng cảm thấy bối rối và khó
xử, khổ tâm lắm, bỏ thì thương mà
vương thì tội! Thế
nhưng “người công chính” Giuse không muốn tố giác Nàng, vẫn tin Nàng là một phụ nữ thánh
thiện, thế nên mới định tâm bỏ Nàng cách kín đáo, an toàn cho cả hai. Rồi khi Đức Giuse đang
toan tính thì ngủ thiếp
đi, bỗng có sứ
thần Chúa hiện
đến báo mộng:
“Này Anh Giuse, con cháu Đa-vít, ĐỪNG NGẠI đón Chị Maria về, vì
người con Chị
cưu mang là do QUYỀN NĂNG CHÚA
THÁNH THẦN. Chị sẽ
sinh con trai và Anh phải đặt tên
cho con trẻ là
Giêsu, vì CHÍNH NGƯỜI
SẼ CỨU DÂN NGƯỜI KHỎI TỘI LỖI CỦA HỌ”.
Kinh Thánh cho biết rằng tất cả sự việc
này đã xảy ra để
ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và
sinh hạ một con trai,
người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi
tỉnh giấc, Đức Giuse đã làm
đúng theo hướng dẫn
của sứ thần và vui vẻ đón vợ về nhà. Tuy là vợ chồng nhưng họ không
ăn ở với nhau. Khi
Đức Maria sinh một con trai, Đức Giuse đặt
tên cho con trẻ là
Giêsu, đúng như lời
sứ thần báo mộng
chín tháng trước.
Ngay lúc được truyền tin, Đức Maria đã cảm thấy ngại, nhưng sứ thần
Gabriel động viên: “Đừng sợ!”. Và Đức
Maria mau mắn vâng phục
Thánh Ý Thiên Chúa. Tương tự, khi biết “hung tin” là
Nàng Maria có thai, Đức
Giuse đã tá hỏa
tam tinh và lo sợ, nhưng cũng
được sứ thần động viên: “Đừng ngại!”. Và Đức
Giuse cũng đã mau mắn
vâng phục Thánh Ý
Thiên Chúa. Hai lời động viên
tương tự, hai cách
hành động cũng
tương tự – mau mắn và tín thác.
Cuối
cùng, hai Đấng
đã hoàn tất Mùa Vọng. Đó là giây phút Hài Nhi Giêsu
sinh ra tại hang đá
Belem trong một đêm
khuya giá lạnh, giữa tiếng
ca mừng của chư thần: “Vinh danh Thiên
Chúa trên trời – Gloria in
Excelsis Deo” (Lc 2:14). Thiên Tử giáng trần để vi hành và cứu độ nhân loại. Thiên Tử Giêsu là Đấng Thánh, cao trọng và uy hùng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh
Giêsu, cả trên trời dưới đất và
trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng: “ĐỨC
GIÊSU KITÔ LÀ CHÚA” (Pl 2:10-11).
Lạy
Thiên Chúa – Đấng
quan phòng, tiền định, đại lượng
và nhân hậu,
xin ban thêm lòng can đảm cho chúng con, giúp chúng con biết mau mắn vâng
phục Thánh Ý
Ngài trong mọi hoàn cảnh, nhất là những lúc không như ý riêng của chúng con. Xin Đức Maria và Đức Giuse nâng đỡ khi chúng con bị hàm oan, bị xa lánh, và xin cầu thay nguyện giúp
cho chúng con kiên tâm tín thác vào một Thiên Chúa duy nhất. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Nhi Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ
nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|