HIỆP
SỐNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT II
MÙA VỌNG C
Br 5,1-9 ; Pl 1,4-6.8-11
; Lc 3,1-6
CHUẨN BỊ TÂM HỒN ĐÓN CHỜ
CHÚA ĐẾN
I.
HỌC LỜI CHÚA:
1. TIN
MỪNG: Lc 3,1-6
(1) Năm thứ
mười lăm dưới triều hoàng
đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm
tổng trấn miền Giu-đê, Hê-rô-đê làm
tiểu vương miền Ga-li-lê, người em
là Phi-líp-phê làm tiểu vương miền
I-tu-rê và Tra-kho-nít; Ly-xa-ni-a làm tiểu
vương miền A-bi-lên; (2) Khan-na và Cai-pha làm
thượng tế. Có lời Thiên Chúa
phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang
địa. (3) Ông liền đi khắp vùng ven sông
Gio-đan, rao giảng kêu gọi người ta chịu
phép rửa tỏ lòng sám hối để
được ơn tha tội, (4) như có
lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng:
“Có tiếng người hô trong hoang địa:
Hãy dọn sẵn con đường cho
Đức Chúa, sửa lối cho thẳng
để Người đi”. (5) Mọi thung lũng
phải lấp cho đầy, mọi núi đồi
phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn
cho ngay, đường lồi lõm phải san cho
phẳng. (6) Rồi hết mọi người
phàm sẽ thấy ơn cứu độ của
Thiên Chúa.
2. Ý
CHÍNH: “MỌI NGƯỜI PHÀM SẼ THẤY ƠN
CỨU ĐỘ” (Lc 3,6).
Bài
Tin mừng hôm nay mô tả khung cảnh thời gian
và không gian, khi Gio-an, con ông Da-ca-ri-a bắt
đầu thi hành ơn gọi làm tiền
sứ của Đấng Thiên Sai.. Lời sấm
ngôn của I-sai-a về việc dọn đường
cho Đức Chúa đến để cứu
thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh lưu đầy,
giờ đây được ứng nghiệm
nơi Gio-an Tiền sứ. Ông tự nhận mình
chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, đi
trước loan báo Đấng Thiên Sai sắp
đến. Ông cũng kêu gọi mọi người
hãy chuẩn bị tâm hồn đón Chúa
đến bằng việc ăn năn sám hối
tội lỗi, và chịu phép rửa do ông
thực hiện trong dòng nước sông
Gio-đan.
3) CHÚ GIẢI:
-
HỎI 1: TIN MỪNG CHO BIẾT GÌ VỀ THÂN
THẾ, SỨ MỆNH VÀ CUỘC ĐỜI
CỦA VỊ TIỀN SỨ GIO-AN TẨY GIẢ?
ĐÁP: Gio-an là con của hai ông bà
Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét (hay I-sa-ve), và đã
được hòai thai cách khác
thường (x. Lc 1,57-68). Từ nhỏ, ông
đã sống khắc khổ chay tịnh trong hoang
địa như ngôn sứ Ê-li-a (x. Mc 1,6). Sau
đó ông được kêu gọi làm ngôn
sứ để loan báo tin mừng Đấng
Thiên Sai (x. Lc 1,76). Ông thi hành sứ mệnh tại
vùng sông Gio-đan. Chính ông đã làm
phép rửa cho Đức Giê-su và đã
được chứng kiến cuộc Thần
hiện xảy ra sau khi Người chịu phép
rửa (x. Mt 3,16-17). Sau đó ông bắt
đầu giới thiệu Người là Chiên
Thiên Chúa (x. Ga 1,29), và khuyến khích hai
đồ đệ bỏ mình đi theo làm môn
đệ Người (x. Ga 1,35-37.43). Ông cũng loan
báo về Đấng Thiên Sai sắp đến (x.
Mc 1,7-8) và khiêm tốn nói rằng: “Tôi đây không
phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ
được sai đi trước mặt
Người... Người phải nổi bật
lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30).
Cuối cùng Gio-an đã kết thúc cuộc
đời tiền sứ bằng cái “chết
vì lẽ công chính” ở trong nhà ngục (x.
Mt 14,3-12), vì đã dám khiển trách tội
loạn luân của vua Hê-rô-đê (x. Lc 3,19). Đức
Giê-su đã khen Gio-an: “Trong số các phàm nhân
đã lọt lòng mẹ, không ai cao trọng hơn
Gio-an” (Lc 7,28).
-
HỎI 2: KỶ NGUYÊN CHUNG HAY CÔNG NGUYÊN LÀ GÌ? CÔNG
NGUYÊN CÓ TỪ KHI NÀO VÀ DO AI SÁNG
LẬP? KỶ NGUYÊN CHUNG DỰA TRÊN MỐC THỜI
GIAN LÀ NGÀY SINH CỦA AI? VIỆC TÍNH TOÁN
THỜI ĐIỂM ẤY ĐÚNG SAI THẾ
NÀO?
ĐÁP:
Công Nguyên, Anno Domini,
viết tắt AD, nghĩa là Kỷ nguyên Ki-tô. bắt
đầu bằng năm sinh của Chúa
Giê-su. Các năm trước đó
được gọi là trước Công Nguyên (TCN).
Từ xa xưa, mỗi
nước đều sử dụng lịch riêng
của nước mình, không có sự
thống nhất nên rất khó giao thương
với nhau. Do đó các nhà lãnh
đạo đều mong muốn có một lịch
chung, một kỷ nguyên chung hay cũng gọi là công
nguyên cho toàn thế giới.
Vào thế kỷ thứ VI, tu
sĩ tên là DI-O-NY-SI-US E-XI-GU-US đã đặt ra
Kỷ nguyên chung khi ông tính lịch cho ngày lễ
Phục Sinh. Ông đã chọn Đức Giê-su
làm nhân vật trung tâm của lịch sử nhân
lọai. Dựa vào các thông tin về cuộc
đời của Đức Giê-su trong các
sách Tin mừng như: Người sinh ra
dưới thời Hê-rô-đê Đại
vương (x. Mt 2,1); trong lúc Rô-ma đang làm sổ
kiểm tra dân số và Qui-ri-nô làm toàn quyền
xứ Sy-ri-a (x. Lc 2,2); Khi ra giảng đạo,
Đức Giê-su trạc độ 30 tuổi (x. Lc 3,23);
Gio-an Tẩy giả thi hành sứ mệnh tiền
sứ vào năm thứ 15 triều hoàng
đế Ti-bê-ri-ô (x. Lc 3,1)... Tu sĩ Di-o-ny-si-us đã
so sánh các chi tiết trên với lịch
sử của đế quốc Rô-ma để tìm
ra năm sinh của Đức Giê-su tương ứng
với lịch Rô-ma tính từ ngày thành lập thành Rô-ma, và
lấy năm sinh của Đức Giê-su là năm
thứ nhất của Kỷ Nguyên Chung. Từ
đó mọi nước trên thế giới
đều thống nhất dùng lịch chung này. Như
vậy năm 2018 nghĩa là năm thứ 2018
tính từ năm Chúa Giê-su giáng sinh.
Tuy nhiên, ngày nay người ta
đã khám phá ra có sự sai sót
trong cách tính của Di-o-ny-si-us. Hầu hết các
học giả Kinh Thánh hiện nay
cho rằng Di-o-ny-si-us đã tính sai, và rằng trên thực
tế Chúa Giê-su sinh trong
khoảng năm 748-750 tính từ ngày
thành lập thành Rô-ma. Có như vậy sự giáng
sinh của Chúa Giê-su mới
trùng hợp với cái chết của Hê-rô-đê
Đại Đế vào năm 4 trước
Công Nguyên (x Mt 2,15).
Nhưng sai sót này không quan
trọng và không ảnh hưởng đến
lịch chung đang được sử dụng trên
thế giới hiện nay.
- HỎI 3: CÓ MẤY THỨ PHÉP
RỬA VÀ PHÂN BIỆT VỚI NHAU THẾ NÀO?:
ĐÁP: Tin mừng
Gio-an cho thấy có hai thứ phép rửa:
Một là “phép rửa trong nước” của
Gio-an Tiền Sứ (x Ga 1,26.31), và hai là “phép rửa
trong Thánh Thần” của Đức Giê-su (x Ga
1,.32-34).
Phép rửa của Gio-an
chỉ là một nghi lễ, giúp người ta
tỏ lòng sám hối để cầu xin Chúa
tha tội. Còn phép rửa do Đức
Giê-su thiết lập mới đem lại ơn
cứu độ cho người lãnh nhận. Ơn
cứu độ ấy như sau: Một là họ sẽ
được tha tội Tổ Tông Truyền và các tội
riêng đã phạm từ khi có trí khôn, nhờ công
nghiệp tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su. Hai
là được tái sinh làm con yêu dấu của Thiên
Chúa nhờ quyền năng Thánh Thần, giống
như Đức Giê-su sau khi chịu phép
rửa (x. Mt 3,17).
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Hãy sửa lối
cho thẳng để Người đi”(Lc 3,4b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) AI LÀ KẺ KHỜ DẠI NHẤT ?
Kho truyện cổ Tây Phương có
kể tích truyện một anh hề trong cung điện
nhà vua, được vua trao cho phủ việt, biểu
tượng của vương quyền, để giúp nhà
vua khỏi ưu phiền. Một hôm nhà vua gọi anh
hề lại và truyền cho anh: "Ngươi hãy giữ
lấy phủ việt này cho đến khi ngươi tìm
được một người nào ngây ngô và khờ
dại hơn ngươi thì ngươi trao lại cho
người đó". Từ đó, mỗi khi có việc
thết đãi triều thần, anh hề đều
đến với phủ việt trong tay, dáng điệu
vênh váo, ngông nghênh, cốt mua vui cho nhà vua.
Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh
nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh
hề lại. Vua buồn bã nói: "Ta sắp sửa đi
du lịch ở một nơi xa lắm".
- "Nhà vua đi đến nơi
nào vậy?", anh hề hỏi.
- "Ta cũng chẳng biết
nữa".
- "Nhà vua đi có lâu không?".
- "Đi hoài và không bao giờ
trở về đây nữa".
- "Nhà vua đã chuẩn bị hành
trang chưa?"
- "Chưa hề".
Bấy giờ anh hề liền
cười hóm hỉnh và lễ phép tâu vua: "Vậy xin
Đức Vua hãy cầm lấy cây phủ việt này.
Hạ thần xin trao lại cho Đức Vua, bởi vì hôm
nay hạ thần đã tìm được một
người ngây ngô khờ dại hơn hạ thần
rồi".
Lời Chúa cũng
nhắc nhở mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng
này: "Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con
Người sẽ đến". Đừng
khờ dại khi sống không có mục
đích, không biết có ngày mình sẽ
phải chết, phải ra đi với hai bàn tay
trắng.
2) GIẢI NÔ-BEN HÒA BÌNH
AN-PHỚT NÔ-BƠN (ALFRED NOBEL) sinh ngày 21 tháng 10
năm 1833 tại SÌ-TỐC-KHÔM (Stockholm) Thụy Điển, là con trai thứ ba
của một nhà khoa học. Từ nhỏ
Nô-bơn đã theo gia đình đến sinh sống tại
Le-nin-grad nước Nga.
Nô-bơn đặc
biệt thích văn học, nhưng vâng
lời cha, ông theo học ngành khoa học kỹ thuật
và nghiên cứu về thuốc súng và thuỷ,
địa lôi. Ông đã phát minh ra chất nổ và
cũng nhờ bán đi bằng sáng chế này
mà ông đã trở thành một nhân vật
nổi tiếng giàu có nhất thế giới
lúc bấy giờ.
Vào ngày 3 tháng 9 năm
1864, nhà máy Nô-bơn phát nổ, rất nhiều công nhân
bị thiệt mạng, trong đó có cả E-mil là em út
của Nô-bơn. Khi ấy Nô-bơn bàng hoàng khi hầu
hết các tờ báo phát hành ngay
từ sáng sớm đều loan tin sai lạc
về cái chết của chính ông, người
mà họ mô tả là kẻ đã sáng chế ra
cốt mìn, một thứ vũ khí giết
người hàng loạt. Các bài viết mang
những tựa đề lớn như: “Nhà buôn cái chết đã chết” – hoặc: "Tiến sĩ Alfred Nobel,
người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách
thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ
hết, đã qua đời vào ngày hôm qua". Thực ra
báo chí đã hiểu lầm về bản chất con
người ông. Việc phát minh ra chất nổ
của Nô-bơn ban đầu chỉ là công trình khoa học
nhằm phục vụ cho nhân loại. Chẳng hạn:
Phá đá làm đường hầm xuyên
qua núi, hoặc lấy đá làm nguyên
liệu xi măng xây dựng đường
xá, cầu cống, nhà cửa và các
công trình phục vụ công ích. Nhưng về sau khi
chiến tranh nổ ra, chính quyền đã lạm dụng
phát minh của No-bơn để chế tạo mìn
sát thương trái với ý muốn
của ông.
Ngay sáng hôm
đó, Nô-bơn đã quyết định
nhờ luật sư làm di chúc để
tình nguyện hiến toàn bộ tài sản to
lớn của ông để phục vụ nhân lọai.
Đó là nguồn gốc của giải
thưởng Nô-bơn được công bố
hằng năm ngày nay. Mỗi năm, số tiền
lời phát sinh từ tài sản kếch xù ban
đầu của Nô-bơn đã được
sử dụng làm giải thưởng có giá
trị cao cho bất cứ người nào, không phân
biệt quốc tịch, có công sáng chế những phát
minh phục vụ nhân lọai về năm lãnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học và đấu tranh cho hòa bình.
3) CÁCH ỨNG
XỬ BÁC ÁI KHÔN NGOAN CỦA MỘT ÔNG TRÙM HỌ ĐẠO
?
Trong một xóm
đạo ở miền quê nọ, các nhà trong xóm
đều được xây dựng liền kề nhau,
chỉ cách nhau vài ba chục mét. Nhà này thường phân cách
nhà kia bằng một hàng phên tre sơ sài. Có nhà nuôi gà
nhốt trong chuồng cẩn thận, nhưng cũng có nhà
cho gà tự do sang bên nhà hàng xóm đào bới đất
kiếm ăn. Một ông trùm họ sống trong xóm có
trồng vài luống rau ăn hằng ngày trong khu
vườn sau nhà. Tuy nhiên hầu như ngày nào ông cũng
mất công đi đuổi lũ gà hàng xóm, chui qua hàng rào
vào trong vườn nhà ông đào bới lung tung, làm hư
hại các luống rau ông đang quan tâm chăm sóc. Ông trùm
đã vài lần sang nói chuyện phải trái với mấy
nhà gần bên để yêu cầu họ làm chuồng
nhốt gà lại, nhưng họ không mấy quan tâm và
chuyện đâu vẫn y như cũ. Vốn là một
người sống đạo đức có chiều sâu,
ông trùm luôn chủ trương sống Lời Chúa dạy và
không muốn chuyện nhỏ biến ra to, nên ông đành im
lặng chịu đựng. Một hôm ông đã tìm ra
một giải pháp hữu hiệu như sau: Trong nhà ông
cũng có nuôi được ít gà mái đang thời
đẻ trứng nhốt trong chuồng và ngày nào chúng
cũng đẻ được một hai quả
trứng. Cứ cách vài ba ngày, ông trùm lại sai con mang
mấy quả trứng gà nhà mới đẻ sang trao
lại cho bên hàng xóm với lời giải thích: đó là
mấy quả trứng do gà nhà ai đó đã đẻ rơi
trong vườn nhà mình. Ông làm như thế vài lần thì
đã có được kết quả tốt đẹp:
các nhà hàng xóm giáp ranh đều đã rào giậu cẩn
thận để tránh gà nhà mình sang đẻ rơi bên nhà
ông. Thế là chỉ mất một ít trứng gà mà ông trùm
đã tránh được tranh chấp có thể gây tranh cãi
biến thành chuyện lớn.
Trong những ngày này, để đón
Chúa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ
thể để làm hòa với một người thân trong
gia đình hay một người quen biết đang có
chuyện bất hòa với chúng ta?
4) HÃY MỞ
CỬA LÒNG ĐÓN RƯỚC CHÚA ĐẾN
VIẾNG THĂM:
Trong một cuộc
triển lãm, họa sĩ VANGOG có trưng bày một bức
tranh rất đẹp với tựa đề “Chúa
đến’”. Ông vẽ Chúa Giê-su đang đứng gõ
cửa trước một căn phòng. Một người
bạn xem tranh và tấm tắc khen tài nghệ xuất chúng
của ông, nhưng sau đó anh chân thành góp ý với họa
sĩ: “Này anh Vangog, bức tranh của anh nói chung đã
hoàn hảo rồi. Nhưng tôi thấy còn thiếu một
chi tiết nhỏ mà có lẽ anh đã không để ý
tới là: Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu
một nắm đấm để người
đứng bên ngoài có thể mở ra được”.
Bấy giờ Vangog liền trả lời: “Không phải
thế đâu anh bạn. Chúa đang đứng gõ cửa
phòng tâm hồn của mỗi người chúng ta. Còn
bạn hay tôi, có sẵn sàng mở cửa lòng mình ra hay không
là do quyết định của chính chúng ta. Nắm
đấm để mở cửa căn phòng nằm phía
bên trong, chứ không nằm phía bên ngoài”.
Trong Mùa Vọng, chúng ta
đợi chờ Chúa đến. Người đang
đến gõ cửa tâm hồn từng người
chúng ta. Cửa phòng có được mở ra hay không,
và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn chúng
ta hay không, là tùy mỗi người chúng ta, có sẵn sàng
mở ra tiếp đón Người, như Người
đã phán trong sách Khải huyền: “Này đây, Ta
đứng trước cửa và gõ. Ai
nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta
sẽ vào nhà người ấy, sẽ
dùng bữa tối với người ấy,
và người ấy sẽ dùng bữa
tối với Ta” (Kh 3,20).
3. THẢO LUẬN: Từ các câu chuyện
trên, bạn rút ra bài học gì để chuẩn bị tâm
hồn đón Chúa đến trong Mùa Vọng này ?
4. SUY NIỆM:
1) BÀI HỌC KHIÊM TỐN KIẾN
TẠO HÒA BÌNH CỦA NÔ-BƠN: Chính nhờ
có cái tâm bác ái quảng đại, sẵn sàng
hy sinh toàn bộ tài sản phục vụ công
ích, cũng như nhờ biết ứng xử khôn
ngoan, mà No-bơn đang từ một kẻ bị
người đời nguyền rủa là
tác nhân gây chết chóc... trở thành một nhân
vật được cả thế giới
ngưỡng mộ, và được công nhận
là ân nhân của nhân lọai, vì đã cổ võ
hòa bình, mang lại niềm vui và hạnh
phúc cho các dân tộc trên thế giới. Còn bạn,
bạn sẽ làm gì trong những ngày này để phục
vụ công ích và gây hòa thuận giữa các thành viên trong gia
đình, khu xóm và nơi làm việc của bạn?
2) “HÃY SỬA ĐƯỜNG
CHÚA CHO NGAY THẲNG”: Trong Mùa Vọng này Giáo
Hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị mừng
lễ Giáng Sinh bằng việc thực hành theo lời Gio-an
Tiền Sứ: “Sửa đường cho ngay
thẳng đón Chúa đến” như sau:
*
Mọi thung lũng phải lấp cho đầy: Cần lấp
đầy tâm hồn bằng sự tha thứ,
hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương
thay cho chia rẽ, thù ghét lẫn nhau...
*
Mọi núi đồi phải bạt cho phẳng: Cần tránh
thói kiêu căng khoe khoang thành tích, luôn làm việc
để tìm tiếng khen. Cần tỏ lòng kính
trọng tha nhân bằng cách xưng hô xứng
hợp với địa vị mỗi người.
Tránh tự cao khi nghĩ mình hơn kẻ khác
và khinh thường những ai không bằng mình
về trình độ, địa vị, tiền bạc,
tài năng….
*
Đường quanh co phải uốn cho ngay: Cần tránh
những lời nói thiếu trung thực, dối trá, chua cay
hay tục tĩu.
*
Đường lồi lõm phải san cho
bằng: Phải tránh tính nóng giận bằng sự làm
chủ bản thân, thay nét mặt cau có bằng
nụ cười thân ái. Tránh tranh cãi to tiếng.
Tránh thói ganh tị nhỏ nhen, gàn dở
cố chấp và ích kỷ hại nhân...
3) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI: Nội dung
chính trong lời kêu gọi của Gio-an Tiền
sứ là “Hãy sám hối”. Sám hối bao
gồm sự nhìn nhận tội lỗi của mình,
hối tiếc vì tội đã phạm, và
quyết tâm chừa cải để quay về xin
lỗi làm hòa với Chúa. Thiếu một
trong ba yếu tố trên thì không còn là sám
hối. Giu-đa biết tội của mình, hối
tiếc vì tội đã phạm và lẽ ra phải
quay về xin Chúa tha thứ, thì anh ta lại
đi treo cổ tự tử ! (x. Mt 27,5) nên
đã bị Chúa trách: “Thà nó
đừng sinh ra thì hơn!” (x. Mc 14,21). Còn
thánh Phê-rô sau khi ý thức tội chối Thầy
của mình, đã hồi tâm sám hối (x. Mt 26,75)
và trông cậy vào lòng khoan dung của Chúa,
nên đã được Chúa tha tội. Cũng
nhờ có lòng mến Chúa nhiều, nên ông đã
được Người trao quyền chăn
dắt đòan chiên (x. Ga 21,15-17).
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối
không phải là điều dễ thực hiện,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận ra lầm lỗi của mình. Xin cho
chúng con học tập nơi Chúa sự
hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Chúa là Đấng trong sạch thánh thiện,
thế mà Chúa lại tình nguyện xếp hàng,
đứng chung hàng ngũ với các tội nhân
để xin Gio-an làm phép rửa. Tuy vô tội,
nhưng Chúa đã muốn trở nên bạn
đồng hành của lòai người
chúng con khi mang lấy thân phận mỏng dòn
yếu đuối của chúng con.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con
biết điều chỉnh cách suy nghĩ và
lối sống của chúng con: Luôn tỉnh thức
để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để không tự dối lòng
mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con
được ơn sám hối thực sự
trong Mùa Vọng này. Cho chúng con quyết tâm
làm những việc bác ái cụ thể, và can
đảm đón nhận những lời phê
bình góp ý của tha nhân để ngày một nên tốt
hơn, vì như người ta thường
nói: “Thuốc đắng dã tật”.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|