VẠN TUẾ ĐỨC
KITÔ !
Thánh Gioan kể lại thị kiến về cuộc
chiến cánh chung thứ nhất: Một con ngựa trắng
và người cưỡi
ngựa tên là Trung Thành và Chân Thật, Người theo công
lý mà xét xử và
giao chiến. Người
mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: “Vua
các vua, Chúa các chúa” (Kh 19:11 và 16). Trước khi bị hành
quyết vì “tội” là linh mục Công giáo, cha Miguel
Agustin Pro (1891–1927, Dòng Tên) vẫn hiên ngang hô vang: “Viva Cristo
Rey! – Vạn tuế Đức Vua Kitô!”. Tạ ơn Chúa
luôn ban cho những tấm gương sáng cho tín nhân soi vào
để củng cố đức tin!
Chân thành thân thưa, Thánh Vịnh gia xác
định: “Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều, rằng: Ngài nắm
quyền uy và giàu lòng nhân hậu; rằng: Ngài theo tội phúc
mà thưởng phạt mỗi người” (Tv 62:12-13).
Đó là điều rạch
ròi và chắc chắn, vì
Ngài KHÔNG THIÊN VỊ bất cứ
ai (Đnl 10:17-18; Hc 35:12; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9).
Chúa Giêsu xác định:
“Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban
cho Người Con MỌI
QUYỀN XÉT XỬ” (Ga 5:22).
QUỐC VƯƠNG ĐỆ NHẤT
Trong một
quốc gia thời quân chủ, quyền tối thượng thuộc
về vua. Theo trật tự xã hội, người ta “quy ước” là
Quân-Sư-Phụ – thứ nhất
là vua, thứ nhì là
thầy (người dạy), thứ
ba mới là cha mẹ.
Vua được tôn xưng là Đức Vua, là Hoàng Đế, là Thánh Thượng, và tất nhiên cũng nắm quyền lực cao nhất – bao hàm cả quyền sinh sát: “Quân
xử thần tử,
thần bất tử bất trung”. Không chỉ vậy, vua còn mệnh danh là Thiên tử – con của Trời, thần dân phải phụng mệnh tối đa, tuân thủ “tối mặt”. Vua bảo chết mà chết mới là trung thần. Đúng là “hết ý” luôn!
Trong mười hai con giáp, rồng là con vật quý – dù chỉ là con vật do tưởng tượng, nhưng
mọi thứ của vua đều được trân trọng là “rồng”: Long nhan, long thể, long bào,
long mão, long sàng,…
Chúng ta biết
rằng thời phong kiến theo chế độ “tông
pháp” (cha truyền con nối), vua
trị vì tới mãn
đời. Vua có khi
chỉ là một thiếu niên, và sẽ làm vua cho đến chết, gặp phải ác vương
thì dân vô cùng khốn khổ.
Vua có “quyền” nên thỏa sức “hành” người ta, vì thế vua nào cũng có có “máu ác”,
thế mà vẫn được xã hội mặc nhiên chấp nhận, ít có những ông vua đức độ như vua Nghiêu và
vua Thuấn của Trung quốc,
làm thiên hạ thái
bình, hoặc như các
vua Trần Nhân
Tôn và Lê Thánh Tôn của Việt
Nam; qua thời dân chủ
thì TT Ngô Đình Diệm
là người khiến
dân Việt tiếc thương
hoài, tưởng nhớ
mãi.
Lịch
sử cho thấy rằng minh quân thì hiếm, hôn quân (vua ác) thì nhiều. Trung quốc có Tần Thủy Hoàng, Vạn Lý Trường Thành của ông vua này đã hao tổn bao sinh mạng của dân
lành; Việt Nam có vua
Lê Long Đĩnh, với
“biệt danh” là Ngọa
Triều (“ngọa” là nằm,
“triều” là triều
chính, ông này ăn chơi sa đọa đến nỗi không
ngồi được nên phải nằm mỗi khi ngự triều), ông
ta còn có thú vui độc
ác là “róc mía trên đầu
nhà sư” và “mổ
bụng các thai phụ
để xem thai nhi thế nào”; vua Shah Jahan của Ấn Độ đã xây
đền Taj Mahal bằng
cẩm thạch (một trong những kỳ quan thế giới)
để tưởng nhớ người vợ thứ ba
là Mumtaz Mahal, nhưng khi đền này xây xong, ông ra lệnh chặt tay tất cả những
người thợ để họ không
thể xây ngôi đền khác như vậy. Ác nhân luôn vui thú với sự ác độc của họ, càng
nghĩ ra các trò ác thì họ
càng thấy vui.
Việc
bách hại Kitô hữu cũng theo quy trình tương
tự. Thời xưa, đế quốc
La Mã đã từng “làm mưa,
làm gió” một thời, biết
bao tín hữu bị phanh thây, xẻ thịt! Người Công
giáo Việt Nam cũng bị
hành hạ suốt ba thời
ác vương: Minh Mạng,
Thiệu Trị, và Tự
Đức. Hàng trăm ngàn tín nhân đã chết không toàn thây để anh dũng minh chứng niềm tin tuyệt
đối vào Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh.
Từ
cổ chí kim, luôn có những
ác vương trên khắp
thế giới. Thế nhưng thần dân vẫn phải tán tụng họ là “hoàng thượng anh minh”. Thậm chí khi
muốn tấu trình
thì phải “muôn
tâu bệ hạ” – tức
là tâu với cái bệ rồng của vua ngồi chứ không
được tâu thẳng nhà vua, thậm chí còn không được nhìn mặt vua, ai nhìn là phạm tội “khi quân”.
Ngày nay chỉ
còn vài quốc gia theo chính
thể quân chủ, nhưng không “thuần túy” như xưa. Người đứng đầu một quốc
gia ngày nay gọi là tổng thống, chỉ tại chức
theo nhiệm kỳ vài năm. Ngày xưa vua tàn ác
minh nhiên, dễ thấy; còn
ngày nay, người đứng
đầu một nước cũng vẫn có người ác độc, nhưng bằng các
động thái
khác và “tinh vi” hơn nhiều,
rất khó phát hiện.
Mà có phát hiện thì cũng
chẳng làm gì được, bởi vì phe nào cũng có “vây
cánh” cả rồi!
THIÊN VƯƠNG NGỰ ĐẾN
Đệ
nhất quốc vương hoặc tổng thống cũng
chỉ là phàm nhân, nghĩa là vẫn
sai lầm và dân vẫn
chịu khổ. Vì thế
người ta mong chờ Thiên Vương để đòi lại công bình cho họ. Ngôn sứ Đa-ni-en kể: “Trong những thị
kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây
trời mà
đến. Người
tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình
diện” (Ðn 7:13). Đó là hình ảnh liên quan thời điểm niên tận thế cùng – Ngày Tận Thế, Ngày Cánh Chung. Chính lúc
đó mọi người tỏ
tường mọi thứ, là lúc yết kiến Thiên Vương, và
cũng là lúc phải trình
diện Vua Muôn Đời.
Và rồi lúc đó, “Đấng Lão
Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và
vương vị”, còn “muôn người thuộc mọi dân
tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng
sự Người” (Ðn 7:14a), thậm chí quỷ vương
cũng phải tâm phục khẩu phục mà bái lạy Người
là Vua các vua, là Chúa các chúa, như Kinh Thánh đã nói: “Một
ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa;
Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN
Đức Chúa” (Gióp 2:1). Đó là đặc quyền, độc nhất vô nhị: “Quyền thống trị của
Người là quyền vĩnh cửu, không
bao giờ mai một; vương
quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Ðn 7:14b).
Theo thị
kiến của ngôn sứ
Đa-ni-en, Con Người ngự giá mây trời đó chính là Đức Kitô, là Vị Vua hoàn toàn khác thường về mọi thứ: “Chúa là
Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào,
Người lấy dũng
lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa
cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn
ngàn đời” (Tv 93:1-2). Vì thế, Ngài chính là Đệ nhất Thiên Vương mà chúng
ta hằng mong đợi,
đồng thời cũng phải tôn thờ và tôn vinh: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên
qua mọi thời” (Tv 93:5). Vạn tuế Thiên Vương
Kitô!
Không chỉ
có vậy, chúng
ta còn phải cầu nguyện:
“Xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân
trung thành, là Trưởng
Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian,
ban cho anh em ân sủng
và bình an. Người
đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng
ta, làm cho chúng ta trở
thành vương quốc
và hàng tư tế
để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính
dâng Người vinh quang
và uy quyền
đến muôn thuở muôn đời. A-men!” (Kh 1:5-6). Thánh sử Gioan cũng thị kiến “Người
ngự đến giữa đám mây” (Kh 1:7a), điều đó cho thấy về Ngày Tận Thế, ngày mà Đức Kitô đến xét xử thế gian, vẫn đang diễn tiến
từng ngày. Và rồi
“ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ
đã đâm Người.
Mọi dân trên mặt đất
sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng
thế! A-men!” (Kh 1:7b). Kẻ lành
và kẻ dữ đều
diện kiến Ngài, nhưng cuộc sống vĩnh hằng của họ
lại hoàn toàn khác nhau: Người lành được làm công dân Nước Trời vĩnh hằng, còn kẻ ác làm đệ tử Luxiphe đời đời.
Là Thiên Chúa duy nhất, hằng hữu và hằng sống, Ngài xác định: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga,
là Đấng hiện có,
đã có và đang đến,
là Đấng
Toàn Năng” (Kh 1:8). Và mãi mãi Ngài vẫn là thế, vĩnh hằng bất biến: “Đức
Giêsu Kitô vẫn
là một, hôm
qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt
13:8).
THIÊN VƯƠNG THƯƠNG XÓT
Trình thuật
Ga 18:28-37 mô tả
một phiên tòa bất
công – vì kẻ ác lại kết án tử một người công
chính. Hôm đó, ông Philatô trở
vào dinh, cho gọi Đức
Giêsu tới và hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”.
Đức Giêsu
không trả lời trực
tiếp mà đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác
đã nói với ngài về tôi?”. Ông
Philatô nói: “Tôi là người
Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm
gì?”. Đức Giêsu
trả lời: “Nước tôi
không thuộc về thế
gian này. Nếu Nước tôi
thuộc về thế
gian này, thuộc hạ của tôi
đã chiến đấu
không để
tôi bị nộp
cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi
không thuộc chốn này”.
Chúa Giêsu rạch ròi hai lần xác định: “Nước tôi
không thuộc thế gian này”. Chắc hẳn tổng trấn Philatô
không thể hiểu ý
Chúa, thế nên
ông ta liền hỏi lại:
“Vậy ông là vua sao?”.
Đức Giêsu
không hề tự nhận
là vua, và thản nhiên
nói: “Chính ngài nói rằng
tôi là vua”. Rồi
Ngài nói rõ: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích
này: LÀM CHỨNG CHO SỰ
THẬT. Ai đứng về phía sự thật thì
nghe tiếng tôi”.
Ngài là Người-của-Sự-Thật,
là Nhân-Chứng-Chân-Lý,
Ngài không đấu tranh cho chính
Ngài mà đấu tranh vì
công lý và hòa bình của nhân
dân, dù người đó sống tốt lành hay tội lỗi. Lòng thương xót của Chúa Giêsu bao la vô tận: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; Er
3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26).
Nếu
nói về Vương Quốc
Chân Lý, Ngài là Vua Sự
Thật. Tuy là Thiên Vương đệ nhất nhưng Ngài lại luôn động lòng trắc ẩn, như vậy Ngài
chính là Đức Vua Thương
Xót. Thế mà những kẻ ác lại tự nhận mình
là công chính để rồi xét xử Người-Vô-Tội. Thiết nghĩ cũng nên biết điểm “chú
thích” này: Tại dinh Cai-pha, một
mình Chúa Giêsu phải
đối mặt với hội đồng xét xử gồm 71 người – trong đó có
23 Tư tế, 23 Luật sĩ,
23 Kỳ lão, với
hai vị chánh và phó chủ tịch. Ôi, thật kinh khủng!
Đề
cập vua chúa thế
gian và quyền hành
trần tục, có lần Chúa Giêsu đã nói: “Thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân,
những người làm lớn thì lấy quyền mà cai
quản dân” (Mt
20:25). Người có thế quyền và thế lực hành xử như vậy, bắt người khác
quy phục, còn
Chúa Giêsu không dùng uy quyền
và thế lực để
đàn áp người khác,
không lạm dụng uy tín và
chức vụ để thị uy hoặc
bóc lột người khác,
mà ngược lại, Ngài phục vụ chứ không bắt người khác phục vụ (x. Mt 20:28; Mc 10:45). Ngài
không chỉ là Vua
của các vua mà còn là Vua Khiêm Nhường và Nhân Ái.
Xưa nay và mãi đến tận thế, chắc hẳn chẳng
có ông vua nào dám làm như vậy,
thậm chí đối
với những kẻ nhẫn tâm giết Ngài mà Ngài vẫn bênh vực họ: “Lạy Cha, xin tha cho họ,
vì họ không
biết việc họ
làm” (Lc 23:34). Ngài thật lòng thương xót và
thật lòng tha thứ chứ không miễn cưỡng hoặc vì ở thế việt vị.
Quả
thật, Chúa Giêsu là Vị Vua “ngược đời” nhất
thế gian, vì Ngài là Vua Trời nhưng đã tự hạ mình xuống thế gian để hòa nhập với thần dân.
Chúng ta cũng “ngược
đời”, nhưng ngược đời trái
chiều với Vua Trời, vì
chúng ta chỉ là bụi tro nhơ nhớp và hèn
mọn, thế mà
chúng ta lại muốn ở
“trên mây”, nghĩa là nâng mình lên càng cao càng tốt – tức là kiêu ngạo, hợm mình, ảo tưởng. Nếu vậy thì
chúng ta hoàn toàn đi ngược
chiều với Đấng mà chúng ta tôn vinh là Thiên
Vương, là Chúa Tể
Càn Khôn, là Vua Trời
Đất, là Vua Vũ Trụ. Hai người chuyển động
ngược chiều thì chẳng bao giờ gặp nhau được!
Hôm nay nhìn lại chính mình, chúng ta học được chút gì
ở Vua Giêsu về quyền hành, chức vụ, địa vị, cách
phục vụ, sự tha thứ, tình
yêu thương, lòng thương xót, cách nói, cách nhìn, cách
đối nhân xử thế,…? Nhưng nên nhớ rằng học là một chuyện, và thuộc bài là một chuyện, còn thực hành bài học đó hay không lại là chuyện khác!
Kính mừng
Đức Kitô là Vua Vũ Trụ cũng là lúc kết thúc năm phụng vụ và năm đời thường, đồng thời là lời nhắc nhở về tận thế
và sự chết, chúng
ta cùng suy tư về ý tưởng độc đáo của tộc trưởng Aupumut – bộ lạc
Mohican: “Vào giây phút ra đi, ĐỪNG để trái
tim mình ngập tràn nỗi sợ hãi, khóc than, nhưng
HÃY cầu nguyện như
thể được ban tặng một cuộc đời
nữa để sống khác đi, HÃY hát bài ca
chào cái chết, và ra
đi giống như một
người hùng quay trở về cố hương”.
Lạy
Thiên Vương Giêsu Kitô, đầy uy quyền nhưng rất mực
khiêm nhường,
có quyền ném
vào lửa đời
đời nhưng đầy tình thương
xót, chúng con thành kính phủ
phục để thú tội vì chúng con quá tồi tệ. Cúi xin Ngài xót thương
và tha thứ cho chúng
con, xin giúp chúng con sống
đúng theo Ý Ngài muốn, xin Ngài mãi mãi là Vua cai
trị cuộc đời
chúng con, và ban cho chúng con được hưởng Ơn Cứu Độ
muôn đời.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
|