HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CN 34 TN B- ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ VUA VŨ TRỤ
Đn 7,13-14 ; Kh 1,5-8 ; Ga 18,33b-37
ĐỂ NÊN THÀNH VIÊN TRONG VƯƠNG
QUỐC VUA GIÊ-SU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
18,33-37
(33) Ông Phi-la-tô trở
vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người:
“Ông có phải là Vua dân Do thái không?” (34) Đức Giê-su
đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những
người khác đã nói với ngài về Tôi?”. (35) Ông
Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân
của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.
ông đã làm gì?” (36) Đức Giê-su trả lời:
“Nước tôi không thuộc về thế gian này. nếu nước tôi thuộc
về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã
chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân
Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này”.
(37) Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là Vua sao?”
Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là Vua. Tôi
đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều
này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai
đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
2. Ý CHÍNH: Trước tòa án
của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã
cho ông biết về Vương Quốc của
Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không
thuộc về thế gian, không có quân đội và không biên
giới. Đức Giê-su cũng khẳng định
Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến
để làm chứng cho sự thật. Thần dân của
Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật
của Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 33-34: + Ông
Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su: Đức Giê-su
đã bị dân quân Đền thờ bắt tại
vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa
tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau khi bị
bắt Đức Giê-su đã bị tòa án tôn giáo xét xử
và bị thượng tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga
18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị
người Rô-ma truất quyền kết án tử hình (x.
Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giê-su
đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này
kết án tử hình Đức Giê-su. Họ đứng
ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế
theo Luật Mô-sê, mà ai vi phạm sẽ không được
ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô
đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi
biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng và thẩm
vấn Đức Giê-su + “Ông có phải là Vua dân Do thái
không?”: Người Do thái đã tố cáo Đức
Giê-su tội phạm về chính trị là xưng mình là Vua
dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô qui tội
phản loạn và kết án tử hình cho Người. Do
đó Phi-la-tô đã tra vấn Người về việc
này. + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những
người khác đã nói với ngài về tôi?”: Đức
Giê-su không trực tiếp trả lời câu hỏi của
Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự
xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự
vu cáo bịa đặt?
- C 35: + Tôi là người Do
thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm
đến những vấn đề tôn giáo, vì ông không
phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các
thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?:
Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái
đã tố cáo như thế để đòi ông xét xử.
Ông hỏi Đức Giê-su đã làm gì đến nỗi
bị họ tố cáo như vậy?
- C 36: +
“Nước tôi không thuộc về thế gian này”: Đức
Giê-su không chối điều họ tố cáo, nhưng
Người xác định mình không phải một ông vua
trần tục. Vì Nước của Người không
thuộc về thế gian này. + “nếu Nước tôi thuộc về thế
gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho dân Do thái”: Lời
này cho thấy sự khác biệt giữa vương
quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa.
Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về
hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia
nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46),
về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).
- C 37: + “Vậy ông
là vua ư?”: Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ
tò mò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng
trong Nước Trời của Đức Giê-su, chứ ông
không nghĩ Người là một ông vua thế tục.
Phi-la-tô biết rõ Đức Giê-su không làm loạn, vì
Người không có quân đội để tự vệ
khi bị người Do thái vây bắt. + “Chính ngài nói:
tôi là vua”: Đức Giê-su xác nhận Người là
Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử: Người
hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng
đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16),
bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho
đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến
“để cho chiên được sống và sống
dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Tôi đã đến thế
gian là để làm chứng cho sự thật”: Sứ
mệnh của Đức Giê-su là đến để làm
chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng
Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giê-su làm
chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra
vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không
có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng
Nước Trời mà Người loan báo. Sự Thật
ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa,
đã được biểu lộ qua cuộc đời,
lời rao giảng và nhất là qua biến cố Tử
nạn và Phục sinh của Người. + Ai
đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”: Đức
Giê-su đến không những để cứu độ
dân Do thái được Thiên Chúa ưu tuyển, mà
Người còn đến cứu mọi dân nước tin
vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào
Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và cũng là Thiên
Đàng mai sau.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao các
đầu mục Do Thái lại giải Đức Giê-su
đến tòa án của quan Phi-la-tô?
2) Tại sao
người Do thái không vào trong nhà, khiến quan Phi-la-tô
phải ra ngòai hành lang để tiếp họ đang đứng
dưới sân?
3) Đức Giê-su cho
Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết
lập có những đặc tính nào khác với nước
thế gian?
4) Khi hỏi Đức
Giê-su: “Ông là Vua ư?”, Phi-la-tô có tin những lời các
đầu mục Do thái tố cáo Đức Giê-su không?
5) Đức Giê-su
nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những
phẩm chất nào?
6) Đức Giê-su
đến để “Làm chứng cho Sự Thật” là
sự thật nào và làm chứng bằng cách nào?
7) Ngòai dân Do thái ra,
Đức Giê-su còn đến cứu độ những
ai?
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tôi
là Vua” (Ga 18,37):
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẺ CĂN CƯỚC TRONG
VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU CỦA VUA GIÊ-SU:
Ngày
11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô
12 đã kể lại một giai thoại. Có một
phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng
sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng
sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn
bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng
cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ
ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến.
Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác
sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai
để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người
chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ
bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết
từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói
trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con
tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi
nữa”. Cô ta chấp nhận
tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác
hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh
được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó
sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau,
người phụ nữ đã tắt thở, trên tay
vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương
mến.
Hơn
hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một
nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần
chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế
bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh
của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà
chị đã được di truyền từ chính
người mẹ thân thương của mình. Đó
là người mẹ
trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính
mạng để cho con được sống.
Người mẹ can đảm này đã được
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước,
bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương
quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giê-su.
Chính Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất
nước nào, một chế độ nào cho phép con
người sát hại lẫn nhau, thì đất
nước đó, chế độ đó đang đi
tới chỗ bị hủy diệt”. Đó là một
đất nước đi ngược lại hiến
pháp của Vương quốc Giê-su. Sống trong
Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi
chúng ta phải sống với một nền văn minh
mới, đó là ‘nền
văn minh của tình thương’. Mẹ Tê-rê-sa
Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người
mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn
một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao
tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay
vì người ta đang dần đánh mất đi
thẻ ID (identity card) Nước Trời chứng minh mình
là công dân Nước Trời.
2) GƯƠNG BÁC ÁI CỦA MÁC-TI-NÔ THÀNH TOURS
CÔNG DÂN NƯỚC TRỜI :
MÁC-TI-NÔ là một
quân nhân Rô-mavà một Kitô hữu. Một ngày mùa
đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố,
có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô
không có tiền, nhưng khi thấy người hành khất
xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc
áo khoác đã sờn rách và dùng gươm xén một
nửa chiếc áo khoác trao cho người hành khất.
Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các
thiên sứ bao quanh Vua Giê-su và trên mình Người mặc phân
nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ
hỏi Chúa Giê-su: "Tại sao Ngài mặc nửa chiếc
áo bị sờn rách đó ? Ai đã cho Ngài? » Chúa Giê-su
trả lời: ”Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã
tặng cho Ta đó”.
Quả thật như
bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các
ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một
trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa nói tiếp:
“Hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh
lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã
chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành
vũ trụ. Vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn,
Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các
ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các
ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các
ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy,
các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật là hạnh phúc cho chúng ta,
nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy
trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua
Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ
chết. Amen.
3) ĐỨC GIÊ-SU LÀ VUA TRÊN HẾT CÁC VUA,
LÀ CHÚA TRÊN HẾT CÁC CHÚA:
Lịch sử nước Anh có câu
chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và
đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT
III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông
ta lúc nào cũng có những nịnh thần tâng bốc.
Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh
thần đã nịnh nhà vua như sau: “Muôn tâu thánh
thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là
chúa trên hết các chúa. Thánh thượng có toàn quyền
cả trên đất liền cũng như ngòai biển
cả bao la!”
Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho
quần thần một bài học, nên đã mời tất
cả quan chức triều đình cùng đi du lịch
đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi
người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm sóng
vỗ rì rào, nhà vua đứng trước biển liền
tuyên bố: “Hỡi biển cả kia. Nhiều
người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết
các chúa, có quyền trên đất liền và biển
khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta
truyền cho sóng biển không được tràn tới
nữa!”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước
biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ
tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào
của nhà vua cùng quần áo các quan chức triều đình!
Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một
nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước
tượng Thánh giá Chúa Giê-su, lấy ra chiếc
vương miện bằng vàng đội lên đầu
Chúa và cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giê-su. Chỉ
có Chúa mới là “Vua trên hết các vua”, là “Chúa trên hết các
chúa”. Chỉ có Chúa mới “có quyền trên cả đất
liền cùng biển khơi” Con chúc tụng ngợi khen Chúa.
AL-LÊ-LU-IA!”.
3. THẢO
LUẬN:
1) Mỗi tín hữu
chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su trở thành Vua của
gia đình mình?
2) Chúng ta cần làm gì
để có thẻ căn cước trong Vương
Quốc Vua Giê-su ?
4. SUY NIỆM:
Ngày nay
quân chủ hầu như đã trở nên xa lạ
đối với nhân loại. Trên thế giới hiện
nay chỉ còn một ít nước Âu Á như: Anh quốc,
Tây Ban Nha, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Nhật
Bản, Thái Lan, Cam-pu-chia… vẫn duy trì chiếc ghế
của vua chúa hay nữ hoàng, nhưng chỉ mang tính
tượng trưng theo truyền thống chứ không còn
thực quyền. Thay vào đó, chế độ dân chủ
đã được hầu hết các quốc gia áp
dụng. Con người càng văn minh lại càng muốn được
bình đẳng và không muốn kẻ khác đè đầu
đè cổ mình. Như vậy Hội Thánh mừng lễ
Chúa Ki-tô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi tâm
thức của con người ngày nay, đặc biệt
nơi giới trẻ hay không? Đức Giê-su có thực
sự là Vua của chúng ta không và phải làm gì để trở
thành công dân Nước Trời của Vua Giê-su sau này?
1)
Đức Giê-su thực sự là Vua Mục Tử :
Qua bài
Tin mừng hôm nay, Phi-la-tô đã đặt ra nhiều câu
hỏi về điều mà các đầu mục Do thái mới
tố cáo, Phi-la-tô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái
không?”. Người trả lời rằng: “ Chính ông nói tôi
là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm
mục đích này là: làm chứng cho Sự Thật. Ai
đứng về Sự Thật thì nghe tiếng tôi”. Qua
đó, Đức Giê-su đã khẳng định
Người chính là Vua, và Người được Chúa
Cha sai đến thế gian nhằm thiết lập
một Vương quốc Sự Thật. Phi-la-tô không hiểu lời
Người nói nên hỏi lại: “Sự Thật là gì?” .
Sở dĩ ông không hiểu sự thật vì ông không
phải thần dân của vương quốc Sự
Thật do Người thiết lập (x. Ga 18, 33-38).
2) Vương
quốc của Vua Giê-su là “Vương
Quốc Sự Thật”:
Tin
mừng Gio-an, Chúa Giê-su đã nói khá nhiều về
Vương quốc Sự Thật mà chính Người
sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người
phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giê-su
đã vén mở một phần về Vương quốc
sự thật ấy: “ Thiên
Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài
phải thờ phượng trong Thần khí và sự
thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly
để giã từ các môn đệ, Đức Giê-su đã
khẳng định: “ Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống”
(Ga 14, 6). Người đến để chúng ta là
thần dân của Người “được sống và
sống dồi dào” (Ga 10, 10). Người cũng cho Phi-la-tô
biết về nước Trời của Người:
“Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên,
chính Phi-la-tô sau đó đã cho treo một tấm bảng
gắn trên đầu cây Thập giá với hàng chữ: “Giê-su
Na-gia-rét, vua dân Do thái”. Qua đó ông đã chính thức công
bố sự thật này là: Đức
Giê-su là Vua của dân Do Thái.
3) Điều kiện để
được vào Nước Trời là sống giới
răn yêu thương cụ thể:
- Vua Giê-su đã đảo lộn mọi
bậc thang giá trị của con người khi cho biết
trong Nước Trời: “Ai muốn làm lớn nhất thì
phải trở nên người bé nhất” noi gương
Người, Đấng “đến
không phải để được phục vụ
nhưng để phục vụ và hiến ban sự
sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
- Vương
quốc mà Chúa Giê-su thiết lập là Vương quốc
của Tình Yêu, và chỉ những ai thực thi yêu thương mới
đủ điều kiện gia nhập vào Nước
ấy. Trong ngày phán xét Người sẽ nói với những
kẻ sống bác ái chia sẻ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc
phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc
dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo
thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã
cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách
lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần
truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu,
các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các
ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36). “Ta bảo
thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm
như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính
Ta vậy” (Mt 25,40).
- Trong
bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã cho biết tình yêu đích
thực là sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình:
“Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của
người hiến ban
mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu còn là
thái độ khiêm hạ phục vụ tha nhân, noi
gương Đức Giê-su sẵn sàng quì xuống rửa
chân cho môn đồ và dạy họ rằng: “ Nếu
Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa
chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”
(Ga 13, 14). Đức Giê-su cũng đề ra Hiến Pháp
của Nước Trời là Bản Hiến chương
Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật, trong đó,
Người nêu ra điều kiện để gia nhập
Nước Trời là : Phải sống khiêm hạ siêu thoát,
ứng xử hiền hòa, chấp nhận đau khổ
bệnh tật, ước ao nên trọn lành, có lòng
thương xót, có tâm hồn thanh sạch, biết ăn
ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì đức
tin...
4) Sứ vụ của các tín
hữu là làm chứng cho Sự Thật và sống yêu
thương:
Ki-tô
hữu là những người chọn bước theo chân Đức Giê-su trên con
đường của Ngài, là làm chứng cho sự
thật. Vậy chúng ta phải làm chứng cho
sự thật, nhất là trong bối cảnh hôm nay, khi sự
giả dối ngày càng chiếm ưu thế trong xã hội
bằng những cách như sau:
- Trước hết, phải sống đúng sự
thật, theo
sự mách bảo của Chúa
Thánh Thần qua tiếng lương tâm. Vì có lẽ
chưa bao giờ sự tha hóa trong cung cách làm ăn buôn bán
của người Việt nam chúng ta lại bị xuống
cấp như hôm nay. Chưa bao giờ vì mưu sinh, muốn
làm giàu mau mà người ta đã dùng mọi thủ
đoạn, bỏ qua tiếng lương tâm cáo trách, để
buôn bán hàng gian hàng giả gây nguy hại cho sức khỏe
của đồng bào mình: Ra đường thì dễ
bị cán phải đinh do
“đinh tặc” rải có thể bị té đến
tử vong, đi vá xe lại bị
“chặt chém”. Khi đổ xăng thì không chỉ bị
gian lận về số lượng mà còn có thể mua
phải xăng “dổm” gây cháy
xe. Ra chợ thì dễ mua phải thực phẩm chứa thuốc độc hại:
Nhiều người đã chết vì uống nhầm rượu “dỏm” hay mặc
áo ngực phụ nữ có chứa chất độc hại
gây ung thư da...
- Ngoài ra
chúng ta phải biết dùng
lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung nhân hậu để đem lại sự an vui
thuận hòa, để yêu thương và tha thứ,
để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng
đỡ và khích lệ, đồng thời sẵn sàng chấp
nhận cho người khác trổi vượt hơn mình,
thì tâm hồn chúng ta mới thực sự an bình. Hãy năng hát bài Kinh Hòa Bình của
thánh Phan-xi-cô, rồi quyết tâm thực hành theo để
nên chứng nhân Tình Thương của Chúa hôm nay.
5. NGUYỆN
CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU: Xin giúp chúng con
biết noi gương Chúa là Vua của Sự Thật. Xin
cho chúng con biết yêu Sự Thật và luôn nói thật, nhưng
biết khôn ngoan để không nói những sự thật
gây thiệt hại cho người vô tội. Xin cho chúng con
tránh những lời dối trá lừa đảo.
Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng
con tránh thái độ đạo đức giả của
các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa
nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36).
Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp
chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói
thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất
công lường gạt người nhẹ dạ dễ
tin.
Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực
trong lời nói việc làm, để xứng đáng là công
dân Nước Trời của Vua Giê-su, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Xin cho chúng con trở thành
khí cụ bình an của Chúa để đưa nhiều
người về làm con Chúa trong đại gia đình
Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|