Đạo đức giả và
quảng đại thật
(Giải
thích và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Giáo
huấn của Đức Giêsu và lời nhắc
đến các kinh sư đi với nhau, khiến
chúng ta nhớ đến đoạn văn trước (Mc
12,35). Bản văn này là như bức tranh
bộ đôi trong đó nổi rõ những nét tương
phản. Các kinh sư khoe khoang và
đạo đức giả bị chỉ trích trong
đoạn văn này là hình ảnh ngược lại
với hình ảnh người môn đệ của
Đức Giêsu.
2.- Bố
cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Lối sống đạo đức giả của các kinh
sư (12,38-40);
2)
Câu truyện bà goá nghèo (12,41-44).
Hai
phần này được liên kết với nhau bằng
từ móc nối “bà góa” (cc. 40.42).
3.- Vài
điểm chú giải
- Anh em
phải coi chừng những ông kinh sư ưa … thích … (38): Các lời cáo buộc của
Đức Giêsu được nêu theo một mức
độ trầm trọng tiệm tiến: xúng xính trong áo
thụng, thích được chào và thích ghế danh dự.
“Áo thụng” (HL. stolê) là áo choàng các kinh sư thường
mặc để vận dụng trong một số
trường hợp. Mt 23,5 trách là họ
đã nối dài tua áo. Thật ra chính bộ áo cũng đã
“thụng”, khi đi thì kéo lê sát đất. Cũng có
thể đây là cử chỉ quấn mình vào trong áo khi
cầu nguyện, khi tuyên một bản án
hoặc khi giải gỡ các lời khấn. Dù
thế nào, đây cũng là một lối khoe khoang áo
xống, nhằm được tôn kính. “Ưa
được chào hỏi” tại các nơi công cộng
cũng là một tật xấu, cùng với tật “ưa
chiếm chỗ danh dự” trong các hội đường
hay các đám tiệc. Chỗ nhất trong hội
đường là vị trí ở trước hòm
chứa tôrah, chỗ này được dành cho những nhân
vật cao trọng và các quan chức. Chỗ
danh dự trong bữa tiệc là chỗ bên cạnh chủ
nhà hoặc người khách đặc biệt.
- Họ
nuốt hết tài sản của các bà goá (41): bản văn Hy Lạp viết là
“nuốt trửng các nhà”. Vào thời ấy,
các kinh sư có thể được cậy nhờ
quản lý giúp số tài sản nhỏ nhoi của các bà goá.
Nhờ đó, họ có thể trục
lợi. Cũng có thể là họ tư vấn về
pháp luật cho các bà góa rồi đòi một thù lao cắt cổ. Dưới mắt một
số chuyên pháp lý và các ngôn sứ Cựu Ước, bóc
lột bà goá, người ít được luật bảo
vệ nhất (vì: 1) là phụ nữ; 2) đại diện
cho tình trạng nghèo túng), là một tội đặc
biệt đáng ghét (Xh 22,21tt; Đnl 27,19; Is 1,7.23; 10,2; Gr 7,6;
22,3; Tv 93/94,6), còn nâng đỡ cô nhi quả phụ theo
gương Thiên Chúa (Đnl 10,18t; 24,17-22; 26,12t; G 29,13; 31,16)
là một việc lành được kể ở hàng
đầu.
- làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu
giờ: x. Mt 6,5.
Đức Giêsu không kết án việc
cầu nguyện lâu giờ, nhưng kết án việc
cầu nguyện để cho người ta thấy. Các
kinh sư đã làm hỏng hành vi tôn giáo
là cầu nguyện khi nối kết nó với thái
độ khoe khoang kệch cỡm của họ.
- thùng tiền (41): Từ Hy Lạp gazophylakion (do từ ngữ Ba Tư gaza = kho tàng). Đây có thể
là phòng tàng trữ của cải ở bên trong khuôn viên
Đền Thờ; khuôn viên này, chỉ người Do Thái
mới được vào. Trong căn phòng này, có
đặt mười ba hòm đựng của dâng cúng. Theo
2 Mcb 36, vào thời vua Sêlêukhô IV, phòng này đầy ứ
những của cải. Theo Phl. Gioxép (Chiến tranh Do Thái
6,282), vào năm 70 sau CG, khi Đền Thờ bị thiêu
hủy, phòng này đã bị thiêu rụi cùng với vàng
bạc châu báu, xiêm y, tiền bạc.
-
Người quan sát xem (41): Đức Giêsu ngồi đó như một khán
giả xem (etheôrei) cảnh sinh hoạt. Thật ra lối mô
tả của Mc không rõ ràng: Trong khi Đức Giêsu ngồi
đối diện với phòng tàng trữ của cải
(gazophylakion), dân chúng ném tiền vào trong các hòm của dâng cúng
(gazophylakion); mà dường như người ta không
được phép ngồi ở đây, nhất là lại
ngồi để xem như xem trình diễn!
- đám đông bỏ tiền: “Tiền” đây dịch từ Hy
Lạp chalcos, “tiền đồng”, nhưng ở đây có
nghĩa là “tiền bạc nói chung.
- một bà goá nghèo (42): Tác giả dùng từ chỉ số
lượng mia (one) thay vì dùng tis (a certain), nhưng
đấy là lối viết thông thường thời
đó. Tuy vậy, hẳn là ngài cũng muốn lưu ý
đến một sự cố đặc biệt
(“một bà goá nghèo đến bỏ vào đó…”).
- hai
đồng tiền kẽm, trị giá một phần
tư đồng bạc:
Hai đồng tiền kẽm”, lepta (số ít: lepton),
bằng một kodrantês; một kodrantês bằng ¼ as hoặc
assarion; một assarion bằng 1/6 quan (một quan, denarius, là
lương công nhật một người thợ).
- Mọi
người đều rút từ tiền dư bạc
thừa … , bà này thì rút từ cái túng
thiếu … (44): Ở
đây không có một bài học luân lý nào được minh
nhiên rút ra. Nhưng vì đã quen với giáo huấn của
Thầy, hẳn các môn đệ Đức Giêsu có thể
rút ra được nhiều bài học như: đừng
phê phán ngưòi ta dựa vào dáng vẻ bề ngoài (x. Mc 12,40;
Mt 23,27); những người quảng đại nhất
cũng như những người đạo đức
nhất không nhất thiết là những người đã
tỏ ra như thế; chỉ một mình Thiên Chúa thấy
trong nơi bí ẩn (Mt 6,4.6.18) và biết các cõi lòng (Lc 16,15;
x. Cv 1,24; 15,8)…
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Lối
sống đạo đức giả của các kinh sư
(38-40)
Giáo huấn của Đức Giêsu
được chia thành một lời khuyến cáo mở
đầu (c. 38b), một lời mô tả các kinh sư (cc.
38c-40b), và một lời kết đe dọa phán xét (c. 40c). Lời chỉ trích
đầu tiên nhắm đến cao vọng diễn
tả ra trong cố gắng tìm cho được dân chúng
nhìn nhận. Họ phô trương
phẩm giá của họ bằng cách mặc những áo dài
đại lễ và yêu cầu được người
ta cung kính chào tại các quảng trường và
được có những chỗ danh dự trong các cử
hành tôn giáo và tại bữa tiệc. Đau
xót hơn, đó là lời chỉ trích thứ hai liên hệ
đến sự tham lam của các kinh sư. Lối
sống của họ càng đáng trách hơn nữa khi
họ nối kết hành vi bóc lột
với việc cầu nguyện lâu dài và giả hình.
Họ
sẽ bị kết án nghiêm khắc tại cuộc xử
án cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời
đời (x. Mc 10,30).
* Câu
truyện bà goá nghèo (41-44)
Khung
cảnh Đền Thờ, phòng tàng trữ của cải,
cùng với những người giàu dâng cúng thật
nhiều tiền, càng làm nổi bật sự nhỏ bé,
bần khốn của bà góa, một con người không
được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Đức Giêsu thấy được
tấm lòng của bà. Lời giáo huấn Ngài ban cho các
môn đệ bắt đầu bằng câu “Thầy bảo
thật (amên) anh em” cho thấy rằng Đức Giêsu
ở trong thế có thể thật sự lượng
định giá trị của lối xử sự của
loài người. Không phải là nguyên sự tự do thanh
thoát đối với của cải đã đưa
lại giá trị cho hành vi dâng cúng,
nhưng là tình yêu đối với Thiên Chúa được
diễn tả qua hành vi đó.
+ Kết luận
Đấng
“dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10;
17,10), và không bị đánh lừa bởi những dáng
vẻ bề ngoài, mời gọi các môn đệ
đừng để bị lừa bởi một bộ
mặt đạo đức che đậy sự khoe
khoang, tham lam và đạo đức giả, hoặc
bởi vẻ không đáng kể của những hành vi bác
ái do những người nghèo và những người
thất học thực hiện. Mỗi người
được mời gọi ý thức về sự
mỏng dòn của mình mà cậy dựa vào ân
sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng
thiện chí của kẻ khác.
5.- Gợi
ý suy niệm
1.
Lời lẽ Đức Giêsu phê phán các kinh sư có thể
có phần phóng đại. Tuy thế, những người
đang có trách nhiệm phục vụ dân Chúa ở các
cấp vẫn cảm thấy được mời
gọi đánh giá lại phong cách, lời ăn tiếng nói
của mình, cũng như ý hướng của mình khi làm
các công việc phục vụ.
2.
Sự lừa dối đã là đáng trách, nhưng càng
đáng trách hơn nữa hành vi lừa
dối bằng cách vận dụng những yếu tố
liên hệ đến sự thánh thiện (như
đọc kinh cầu nguyện, thánh lễ, viếng nhà
thờ…) để che giấu một thực trạng tiêu
cực.
3.
Tấm gương bà góa mời gọi các Kitô hữu
đừng đánh giá con người theo
bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa,
điều quan trọng không phải là của dâng cúng to
lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng.
“Của cho không bằng cách cho”!
4.
Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên
Chúa kính trọng, cộng đoàn ki-tô hữu không những
cần nghiền ngẫm tấm gương của bà góa,
không những âm thầm kín đáo làm các hành vi đạo
đức, mà còn san sàng giúp đỡ những người
đang sống cảnh cô độc neo đơn.
|