HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN B
Đnl
6,2-6 ; Dt 7,23-28 ; Mc 12,28b-34
THỰC HÀNH MẾN CHÚA YÊU
NGƯỜI TRONG CUỘC SỐNG
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 12,
28b-34
(28b) Khi
ấy, có người trong nhóm kinh sư đến gần
Đức Giê-su và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi
điều răn, điều răn nào đứng
đầu?" (29) Đức Giê-su trả lời:
"Điều răn đứng đầu là: Nghe
đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là
Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức
lực ngươi. (31) Điều răn thứ hai là :
Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các
điều răn đó".(32) Ông kinh sư nói với
Đức Giê-su : “Thưa Thầy, hay lắm. Thầy nói
rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Ngòai
Người ra không có Đấng nào khác. (33) Yêu mến Thiên
Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu
người thân cận như chính mình, là điều quý
hơn mọi lễ tòan thiêu và hy lễ. (34) Đức
Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy thì
bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Sau đó,
không ai dám chất vấn Người nữa.
2.Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu
trả lời của Đức Giê-su cho vị kinh sư
Do Thái khi ông chất vấn Người về điều
răn nào là quan trọng nhất trong tòan bộ
Luật pháp Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều
răn quan trọng nhất là mến Chúa hết lòng và yêu
người thân cận như yêu chính mình. Ông kinh sư
cũng nhất trí như vậy và còn cho rằng hai
điều này có giá trị hơn mọi của lễ tòan
thiêu và hy lễ dâng lên Đức Chúa tại đền
thờ.
3.CHÚ THÍCH:
-C 28b-30: +Có
người trong nhóm kinh sư: Kinh sư hay
Luật sĩ là những nhà chuyên môn về Thánh kinh vì nghiên
cứu Thánh kinh kỹ lưỡng và lâu dài. Số ít trong
nhóm kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là thường
dân ủng hộ lập trường của nhóm Pha-ri-sêu.
Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân. Các kinh
sư là người giải thích và áp dụng Luật Mô-sê
vào đời sống của dân chúng. Các kinh sư cùng
với thượng tế và kỳ mục
là ba thành phần trong Thượng hội
đồng Do thái tại Giê-ra-sa-lem (x. Cv 23,6). +trong
mọi điều răn, điều răn nào
đứng đầu?: Trong Tin Mừng Mát-thêu
viết cho Kitô hữu gốc Do Thái, câu hỏi là
“điều răn nào lớn nhất ?” (Mt 22,35). Còn ở
đây Tin Mừng Mác-cô viết cho Kitô hữu gốc lương
dân, đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa ưu
tiên:”điều răn đứng đầu?. Thực ra
các nhà kinh sư thời đó thường tranh cãi
để tìm ra trong số 613 điều răn trong Thánh
Kinh, gồm 248 điều buộc và 365 điều
cấm, đâu là điều luật quan trọng nhất.
Cho tới lúc ấy các kinh sư vẫn chưa thống
nhất ý kiến. Ông kinh sư tin Đức Giê-su là “Đấng
rao giảng có uy quyền” sẽ cho câu trả
lời chính xác. +Điều răn đứng
đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.: Đức
Giê-su đã trích khỏan Luật Mô-sê được
những người Do Thái đọc mỗi ngày 2 lần
(Đnl 6,5). +“Nguơi phải yêu mến
Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn và hết sức lực ngươi”: Thiên
Chúa là chủ tể muôn loài, là Đấng duy nhất cao
cả. Chính Ngài đã dựng nên muôn vật, là nguồn
sự sống và là cùng đích mọi loài. Vũ trụ
chỉ tồn tại được nhờ Ngài và trong
Ngài. Vì thế người ta có bổn phận phải
biết ơn và yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
-C
31-33: +Điều răn thứ hai là: Ngươi
phải yêu mến người thân cận như chính mình: Người
Do Thái vẫn mang nặng khuynh hướng bài ngọai theo
Luật Mô-sê: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”
(Mt 5,43). Ở đây Đức Giê-su thêm “Điều
răn thứ hai trích trong Luật Mô-sê (Lv 19,18): Tình yêu
đối với Thiên Chúa và đối với người
thân cận là bản tóm lược mười điều
răn ghi khắc trên hai bia đá là “mến Chúa và yêu
người”. +Thưa Thầy, hay lắm,
Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy
nhất. Ngòai Người ra không có Đấng nào khác: Vị
kinh sư biểu lộ thái độ đồng ý với
quan điểm của Đức Giê-su và nhắc lại
câu trả lời của Người để nhấn mạnh
tính duy nhất của Thiên Chúa (Đnl 4,35; Xh 8,6; Is 45,21),
Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối
với tha nhân có liên hệ mật thiết với nhau. +Yêu
mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức
lực, và yêu người thân cận như chính mình: Ông
kinh sư nhắc lại khía cạnh tri thức của tình
yêu. + là điều quý hơn mọi lễ tòan thiêu và hy
lễ: Khi nhận định như vậy, ông
kinh sư không phủ nhận nghi lễ phụng tự
tại Đền Thờ, mà cho thấy nghi lễ phụng
tự bị hạ thấp giá trị so với việc
thực thi lòng mến Chúa và yêu tha nhân.
-C 34: +Ông
không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu: Ông kinh sư đã
hiểu biết và đánh giá đúng điều răn quan
trọng trong Luật Mô-sê. Điều này cho thấy ông
đã suy nghĩ giống Đức Giê-su và có khả
năng trở thành thành viên trong Nước Thiên Chúa do
Người sắp thiết lập (x. 10,13-16).
4. CÂU HỎI:
1) Kinh
sư hay luật sĩ là ai? Phân biệt với
người Pha-ri-sêu thế nào?
2)
Luật Mô-sê gồm bao nhiêu điều khỏan buộc và
cấm? Tại sao ông kinh sư lại hỏi Đức
Giê-su về điều luật nào quan trọng và
đứng đầu trong bộ Luật Mô-sê?
3)
Đức Giê-su đã trả lời cho ông kinh sư
khỏan luật quan trọng nhất thế nào?
Ngừơi Do thái mỗi ngày phải đọc lại
khỏan luật này mấy lần?
4)
Đức Giê-su cũng cho biết điều luật
thứ hai cũng quan trọng không kém là khỏan luật
nào? Hai điều luật này tóm lược Mười
điều răn do ai trao cho ông Mô-sê và được ghi
khắc trên hai tấm bia đá?
5)Thái
độ của ông kinh sư trước câu trả
lời của Đức Giê-su thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su trả
lời: "Điều răn đứng đầu là:
Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là
Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức
lực ngươi. (31) Điều răn thứ hai là :
Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các
điều răn đó"(Mc 12,29-31).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÀM SAO CÓ THỂ YÊU CHÚA ĐƯỢC KHI
CHƯA GẶP CHƯA THẤY CHÚA?
Một người mẹ nói với
cô con gái nhỏ về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé tỏ ra bối
rối thưa với mẹ: “Mẹ ơi, làm sao con có
thể yêu Chúa được? Con chưa bao giờ gặp
Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một
món quà gửi qua đường bưu điện, trong
đó có một con búp-bê có thể chớp mắt rất
đẹp. Bên cạnh có tấm cart Noel ghi hàng chữ: “Chúc
mừng Giáng Sinh vui vẻ. Tặng Maria thân yêu con búp bê, Dì
Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa vì
sống cách nhau hàng ngàn cây số. Khi bé Maria ôm con búp bê vào
lòng, em nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con yêu
dì Rosa quá! Dì đã cho con búp bê rất dễ
thương này” Bấy giờ mẹ bé Maria
hỏi rằng: “Làm sao con có thể yêu dì Rosa khi
chưa bao giờ gặp dì ?”. Maria liền trả lời:
“Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì đã gởi cho con con búo
bê này”.
2) THƯƠNG NGƯỜI, NHƯNG
LẠI SỢ NGƯỜI:
Dọc theo triền núi Trường
Sơn, có một ngôi mộ lâu đời, trên bia mộ có
khắc dòng chữ như sau: “Tôi thương người,
nhưng lại khiếp sợ người”. Đây là câu
nói của Hy Thanh, người nằm trong ngôi mộ. Câu
chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh học
cách tìm mạch nước ngầm nơi một ông
thầy giỏi nghề. Bạn bè nói với anh rằng:
“Dưới đất lúc nào mà chẳng có nước. Mày
học làm chi cái nghề vô tích sự ấy”. Cha mẹ anh
em trong nhà cũng mắng anh: “Nếu mày cứ muốn học
nghề đó thì ra khỏi nhà và đừng bao giờ vác
mặt về nhà này nữa!” Hy Thanh đành phải bỏ
nhà ra đi. Ban ngày anh vừa đi học vừa kiếm
chỗ làm phu khuân vác để kiếm ăn. Tối
đến xin vào ngủ trong nhà chùa. Anh cứ kiên trì theo
học nghề tìm mạch nước ngầm ấy
nhiều năm. Hai mươi năm sau, gặp lúc trời
hạn hán, các giếng trong làng đều khô cạn
hết. Nhiều người bị chết khát vì không
kiếm đâu ra nước uống. Bấy giờ,
người ta mới chợt nhớ đến Hy Thanh và
cử người đến yêu cầu anh tìm mạch
nước giúp dân làng. Hy Thanh đã sớm tìm ra mạch
nước ngầm và khơi được nguồn
nước chảy ra lênh láng. Dân các nơi khác nghe tin kéo
đến xin nước uống râ71t đông. Họ vui
mừng ca tụng về tài năng xuất chúng của anh.
Nhưng rồi có kẻ do khát lâu ngày, đã uống quá
nhiều nước bị ngã ra chết. Thế là
nhiều người thay vì tỏ lòng biết ơn lại
quay ra chửi bới mạt sát Hy Thanh thậm tệ.
Lũ người nhà của kẻ bị chết còn hè nhau
xông vào đánh đập anh đến chết.
Trước khi nhắm mắt lìa đời, Hy Thanh
thều thào nói: “Tôi thương người, nhưng
lại sợ người”.
3. SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi
lại câu Đức Giê-su trả lời cho ông kinh sư Do
Thái khi ông chất vấn Người về điều
răn nào là quan trọng nhất trong Luật pháp
Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều răn quan
trọng nhất là mến Chúa yêu người. Ông kinh sư
cũng nhất trí như vậy và còn cho rằng hai
điều này có giá trị hơn mọi của lễ tòan
thiêu và hy lễ dâng tiến Đức Chúa trong Đền
thờ.
1) MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ YÊU THA NHÂN NHƯ
YÊU MÌNH:
Ai trong chúng ta cũng đều ý
thức về hai bổn phận đối với Thiên
Chúa và tha nhân. Tin mừng hôm nay đã ghi lại lời
Đức Giê-su dạy hai điều răn trọng
nhất là “mến Chúa hết lòng hết sức và yêu thương
tha nhân như yêu mình”. Hai điều răn này tóm
lược tòan thể bộ Luật Tô-ra của Mô-sê. Tuy
nhiên Đức Giê-su còn nhấn mạnh điều răn
thương người chính là điều kiện
để biểu lộ lòng mến Chúa và xứng đáng
được Chúa vui nhận lễ vật như sau: “Vậy,
nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn
thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có
chuyện bất bình với anh, thì hãy để của
lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa
với người anh em ấy đã, rồi trở
lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Thế
nhưng, cụ thể chúng ta phải yêu thương anh em
thế nào?
2) KỶ SỞ BẤT DỤC, VẬT THI
Ư NHÂN:
- Truyền thống Do Thái có câu
chuyện như sau: Ngày kia một người tìm
đến với thầy SA-MAI, thuộc phái giải thích
luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý
định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi: “Thầy có thể
dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật
trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không
thể ở lại Giê-ru-sa-lem lâu được”. Nghe nói
thế, thầy Sa-mai nổi giận và truyền
đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy
vọng, ông ta tìm đến với thầy GIL-LEN, một
người vừa thông thái, vừa cởi mở lại
vừa phóng khoáng. Trước cùng một câu hỏi
được đưa ra, thầy Gil-len đã trả
lời ngay: “Đừng làm cho người khác
điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái
cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ
khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này
mà thôi”.
- Trong Cưu Ước, Tô-bi-a cha
đã khuyên Tô-bi-a con như sau: “Điều con không thích thì
đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Điều
không thích còn bao hàm các việc cụ thể như: không nói
xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và rất
nhiều những điều khác nữa. Nhờ đó
cuộc sống của chúng ta sẽ được an vui
hạnh phúc. Đức Khổng Tử cũng khuyên
đồ đệ tương tự: “Điều mình
không muốn thì đừng làm cho người khác”. Còn trong
Tân Ước Đức Giê-su dạy các môn đệ thực
hành yêu thương theo hướng tích cực: ”Vậy
tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho
mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật
Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
3) THỰC HÀNH ĐIỀU RĂN YÊU
NGƯỜI CỤ THỂ:
Yêu thương không chỉ bằng
lời nói suông, hay bằng tình cảm nhất thời chóng
qua, nhưng bằng các việc cụ thể như kinh
Thương Người có mười bốn mối, trong
đó thương xác bảy mối và thương linh
hồn bảy mối. Thánh Gia-cô-bê cũng đòi các tín
hữu phải yêu thương cụ thể như sau:
“Giả như có người anh em hay chị em không có áo che
thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong
anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc
cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ
những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích
lợi gì ?” (Gc 2, 15-16). “Nhờ hành động mà con
người nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ
đức tin” (Gc 2,24).
4) YÊU THƯƠNG CỤ THỂ THEO LINH
ĐẠO CỦA MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA:
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã dạy
các nữ tu thực hành yêu thương tha nhân cụ
thể như sau:
- Hãy
bắt đầu yêu thương các người thân trong
gia đình: “Tôi luôn luôn nói rằng, tình yêu phải
khởi sự từ gia đình trước đã, rồi
sau đó mới đến thành phố hay đô thị. Yêu
thương những người ở xa chúng ta thì dễ,
nhưng yêu thương những người sống
với chúng ta hay ở ngay bên cạnh chúng ta thì lại không
dễ chút nào.”
- Đừng
xét đoán hay nói xấu tha nhân: “Nếu bạn xét
đoán, bạn sẽ không còn giờ để yêu họ”.
- Hãy
quảng đại cho đi: “Bạn phải cho đi
những gì làm bạn bị thiệt thòi. Như thế,
không chỉ cho đi những gì dư thừa, nhưng cho
cả những gì bạn không thể sống nếu không có
nó, những gì bạn thật sự yêu thích. Như thế,
món quà của bạn trở thành lễ hy sinh, có giá trị
trước mặt Chúa”.
4.THẢO
LUẬN:
Để thực hành
lối sống yêu thương cụ thể nói trên,
bạn cần tập sống tình mến Chúa yêu
người theo phương cách nào hữu hiệu
nhất?
5. LỜI
CẦU: Phục vụ trong yêu
thương:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn sống
phục vụ trong yêu thương:
Nơi cộng đoàn, biết tâm
đầu ý hợp.
Trong gia đình, biết mặn mà
dễ thương.
Ngoài xã hội, biết đối
xử tốt và thương xót.
Với mọi người, biết nhân
nhượng và tôn kính nhau.
Khi làm việc, biết siêng năng và
tận tình.
Trong mọi sự, biết tha
thứ, chịu đựng và tin tưởng.
Ở mọi nơi, luôn chiếu
tỏa lòng Chúa hiền hậu và khiêm nhường.
Trước cám dỗ, luôn chiến
thắng để bền đỗ trong ơn thánh.
Nhờ đó, chúng con trở nên tông
đồ được Chúa sai đi,
Mà làm chứng về Chúa cho mọi
ngươi.- AMEN.
(Lời cầu của
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta).
LM ĐAN VINH – HHTM
|