HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 30 TN B
Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc
10,46-52
XIN ƠN SÁNG MẮT SÁNG
LÒNG ĐỂ ĐI THEO CHÚA
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 10,46-52
(46) Đức Giê-su
và các môn đệ đến thành Giêricô. khi Đức Giê-su
cùng với các môn đệ và một đám người khá
đông ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành
khất mù, tên là Báctimê, con ông Timê, đang ngồi ở
vệ đường. (47) Vừa nghe nói đó là
Đức Giê-su Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên
rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng
thương tôi!” (48) Nhiều người quát nạt
bảo anh ta im đi. Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng:
“Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. (49)
Đức Giê-su đứng lại và nói: “Gọi anh ta
lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo:
“Cứ yên tâm đứng dậy, Người gọi anh
đấy!” (50) Anh mù liền vất áo choàng lại,
đứng phắt dậy, mà đến gần
Đức Giê-su. (51) Người hỏi: “Anh muốn tôi làm
gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn
thấy được”. (52) Người nói: “Anh hãy đi,
lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc anh ta nhìn
thấy được và đi theo Người trên con
đường Người đi.
2. Ý CHÍNH:
Trên bước
đường đi về Giêrusalem để chịu
tử nạn và phục sinh, thì tại thành Giêricô,
Đức Giê-su đã chữa cho một người mù tên
là Báctimê, đang ngồi ăn xin bên vệ
đường, vì anh đã tin cậy nơi Người.
Qua phép lạ mở mắt người mù này, Người
muốn mở mắt đức tin cho các môn đệ,
để họ thấy được ý nghĩa cao
cả của sứ mạng cứu thế mà Người
sắp thực hiện tại Giêrusalem là: “Qua đau
khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 46: + thành Giêricô: Giêricô có nghĩa
là “mặt trăng”, một thành ở thung lũng sông
Gio-đan, cách biển Chết 5 cây số và cách Giêrusalem
khoảng 25 cây số. Thời Xuất hành, Giêricô là thành
đầu tiên mà con cháu Gia-cóp, dưới sự lãnh
đạo của Giosuê tiến chiếm được (x.
Gs 5,13tt). Dụ ngôn người Samari tốt lành cũng
nhắc đến đoạn đường từ
Giêrusalem xuống Giêricô (x. Lc 10,30). + có một
người hành khất mù: Hành khất là
người ăn xin. Đây là một người đói
khổ về vật chất, đang cần
được giúp đỡ. Anh ta còn bị mù,
tượng trưng cho người đang đi trong
tăm tối vì chưa nhận biết và tin Đức Giê-su.
Có thể Đức Giê-su chữa một lúc hai
người mù (x Mt 20,30), nhưng ở đây Mác-cô chỉ
ghi lại một người và nêu rõ tên là Báctimê. +
ở vệ đường: đồng nghĩa
với “đầu đường xó chợ”, nói lên hoàn
cảnh bơ vơ không nơi nương tựa của
ngươi mù. anh ta tượng trưng cho số phận
đau khổ của “Người nghèo của Đức
Giavê”, đối tượng được Đức Giê-su
ưu tiên mời gia nhập vào Nước Trời của
Người.
- C 47-48: + Đức Giê-su Nadarét:
Giê-su nghĩa là “Giavê cứu độ”. trong Thánh Kinh có
một số người cũng tên là Giê-su (x.Hc 50,27; Lc
3,29; Cl 4,11). Để phân biệt, người ta
thường thêm tên quê hương vào sau tên gọi. Giê-su
nói đây chính là Đức Giê-su quê làng Nadarét. + Con Vua
Đavít: Anh mù gọi Đức Giê-su kèm tước
hiệu “Con Vua Đavít” cho thấy nhiều người Do
thái đã tin Đức Giê-su là “Đấng Thiên Sai”,
nhưng họ lại đang mong đợi một
Đấng Thiên Sai trần thế, đến giải phóng
dân tộc khỏi ách thống trị của đế
quốc Rô-ma (x. Mt 22,42; Ga 7,42). + “Xin dủ lòng
thương tôi”: Lời cầu xin này nói lên sự
khiêm hạ và lòng tin mạnh mẽ của anh mù vào quyền
năng Đức Giê-su. Anh trông cậy Người sẽ
làm cho anh được sáng mắt như ngôn sứ Isaia
đã tuyên sấm về sứ mệnh của Đấng
Thiên Sai: “Bấy giờ mắt người mù
mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò...” (Is
35,5-6). + Nhiều người quát nạt bảo anh im
đi: Một số người ở gần anh
mù tỏ vẻ bực tức trước việc anh ta kêu
la lớn tiếng. Họ bắt anh mù phải im lặng
để họ nghe được lời Đức Giê-su
lúc đó đang vừa đi đường vừa
giảng dạy. + Nhưng anh ta càng kêu lớn
tiếng: “Lạy Con Vua Đavít! Xin dủ lòng
thương tôi”: Vì
tin vào tình thương và quyền năng của Đức
Giê-su Thiên Sai, nên anh mù bất chấp mọi rào cản:
Người ta càng cấm, thì anh lại càng kêu la thống
thiết hơn: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng
thương tôi!”.
- C 49-50: + Người ta gọi
anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy!
Người gọi anh đấy”: Thái độ
của đám đông đối với anh mù đã thay
đổi: Từ khinh thường nạt nộ
đến tôn trọng và nhỏ nhẹ hơn với anh. +
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt
dậy mà đến gần Đức Giê-su: Áo choàng
là một vật thiết thân đối với khách bộ
hành và người ăn xin. Nó thường được
dùng làm dù che cơn nắng gắt ban ngày và làm mền đắp
cho ấm ban đêm. Vậy mà khi nghe nói “Người
gọi anh đấy”, anh ta liền vất áo choàng lại,
đứng bật dậy mà chạy mau về phía
Đức Giê-su, như thể anh đã được sáng
mắt rồi vậy.
- C 51-52: + “Anh muốn tôi làm gì cho
anh?”: Dù đã biết rõ anh mù muốn xin gì rồi,
nhưng Đức Giê-su vẫn tạo cơ hội
để anh ta biểu lộ đức tin. + “Xin cho
tôi nhìn thấy được”: Anh mù không xin tiền
bạc hay đồ ăn thức uống như mọi
khi, mà chỉ xin được sáng mắt, được
nhìn thấy mọi sự như bao người khác. +
“Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”: Điều
kiện để được Đức Giê-su cứu
chữa là phải có đức tin, như khi Người
chữa lành cho hai người mù (x. Mt 9,29), khi chữa
người phong cùi (x. Lc 17,9)... + Tức khắc, anh ta
nhìn thấy được và đi theo Người trên con
đường Người đi: Anh mù chỉ xin
được sáng mắt thể xác, nhưng Đức Giê-su
lại ban cho anh được sáng lòng, sáng cả mắt
linh hồn, để anh có đức tin trọn vẹn,
nhìn thấy được con đường Người
sắp đi và can đảm bước theo Người đi
lên Giêrusalem, trải qua mầu nhiệm “qua đau khổ
vào vinh quang” để sau này được hưởng
ơn cứu độ muôn đời.
4. CÂU HỎI:
1) Thành Giêricô là
thành nào? Sách Xuất hành đề cập tới tên thành này
trong trường hợp nào? Đức Giê-su cũng nói
tới tên thành này trong dụ ngôn nào?
2) Số
người mù được Đức Giê-su chữa lành
trong 2 Tin Mừng Mat-thêu và Mác-cô có giống nhau không? Tại
sao?
3) “ngồi ở
vệ đường” nói lên hòan cảnh của
người mù này lúc đó ra sao?
4) Tên Giê-su
nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su được
người mù gọi là Giê-su Na-da-rét?
5) Qua việc kêu
cầu Đức Giê-su với danh hiệu “Con Vua Đa-vít”,
người mù biểu lộ đức tin về
Người ra sao? Còn dân Do Thái lại đang trông mong
một Đấng Thiên Sai theo nghĩa nào?
6) Lời kêu xin
của người mù cho thấy đức tin của anh
vào Đức Giê-su ra sao?
7) Tại sao dân
chúng cấm anh mù kêu lớn tiếng? Tại sao anh lại
kêu la thống thiết hơn?
8) Anh mù đã làm
gì với chiếc áo chòang thiết thân khi nghe Đức Giê-su
cho gọi anh?
9) Tại sao
Đức Giê-su lại hỏi anh mù xin gì, dù Người đã
nghe rõ lời kêu xin của anh?
10) Trong Tin
Mừng, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải
có điều kiện gì để được
Người làm phép lạ?
11) Ngòai việc
được sáng mắt thể xác, anh mù còn
được Người ban ơn gì về tinh thần?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Anh mù liền vất áo choàng lại,
đứng bật dậy mà đến gần Đức Giê-su
(Mc 10,50):
2. CÂU CHUYỆN:
1) NĂM
ANH MÙ ĐI XEM VOI :
Nhân buổi ế hàng, năm ông
thầy bói ngồi tán chuyện với nhau. Thầy nào
cũng phàn nàn không biết hình thù con voi như thế nào. Chợt
nghe người ta nói đang có voi sắp đi ngang qua,
năm thầy chung tiền biếu người quản
voi, xin cho voi dừng lại ít phút để cho họ tìm
hiểu về hình thù của nó. Được sự
đồng ý của người quản voi, năm
thầy bói liền đến gần để sờ. Thầy
thì sờ thấy cái vòi, thầy thì sờ được
cái tai, thầy thì lại sờ được chân,
thầy thì sờ thấy cái đuôi. Rồi năm thầy
ngồi lại đàm luận với nhau
Thầy sờ thấy cái vòi liền
nhận xét: Tưởng con voi thế nào, hoá ra nó chỉ
như một con đỉa lớn.
Thầy sờ thấy tai cãi lại: Đâu
có ! Nó bè bè giống như một cái quạt nan lớn.
Thầy sờ thấy chânkhông
đồng ý: Ai bảo? Nó to sừng sững như cây
cột đình làng.
Thầy sờ vào thân mình voi phán: Không
đúng. Con voi giống như một cái trống lớn.
Thầy sờ đuôi bảo: Các
thầy đều nói sai cả. Nó giống như một
cây chổi xể cùn.
Năm thầy, thầy nào cũng cho là
mình nói đúng và không ai chịu thua ai. Từ đánh võ
miệng biến thành đánh lộn dùng gậy đập
nhau loạn xạ khiến cho kẻ thì bị bể
đầu, người lại bị sứt trán.
Người ta
thường hay tranh cãi nhau vì ai cũng nghĩ chỉ có mình
đúng, còn người khác đều sai, đang khi
thực ra mỗi người chỉ đúng trong cái nhìn
phiến diện của mình. Chính thái độ cố
chấp đã khiến năm anh thầy bói mù tranh cãi đánh
lộn nhau để bảo vệ cho nhận thức sai
trái của mình. Điều quan trọng là mỗi
người cần khiêm tốn thừa nhận mặt
hạn chế của mình để sẵn sàng tiếp thu sự
góp ý của người khác. Có như vậy chúng ta mới
hy vọng đạt tới được sự thật
toàn vẹn.
2) TÌM ĐƯỢC
MẸ RUỘT NHỜ CON MẮT TRÁI TIM:
Vào một buổi
chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có
khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo
nức chờ đón một số binh lính là người
thân của họ trở về từ các trại tập
trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một
người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang
lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần
đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi
đang đứng chung với mấy người thân trong
gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi
kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con ôm chầm lấy
nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra
cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà
mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù
như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ
giữa bao nhiêu người khác và kêu lên như vậy?”. Anh
lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con
không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước,
nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng
đang có mặt tại đây và đang chờ đón con.
Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ
đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc tự
nhiên linh tính mách bảo rằng mẹ đang ở rất
gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên
“Mẹ!” và quả thật con đã gặp được
mẹ như mẹ đã thấy đó”.
3) AI MỚI BỊ MÙ ?
Một anh mù kia đến nhà bạn
chơi. Lâu rồi không gặp nên hai người nói
chuyện lâu giờ quên cả thời gian. Khi trời đã
tối mịt thì anh mù mới từ giã bạn ra về.
Thấy đường làng tối thui, người
bạn liền bảo: “Này anh bạn, hãy để tôi
thắp cho anh một cây đèn dầu, vì bên ngoài trời
đã tối quá rồi”. Anh mù nghĩ bạn muốn trêu
đùa nên trả lời: “Anh nói gì vậy? Tôi bị mù thì cần
gì đến cây đèn sáng mà anh định trao cho tôi ?”. Anh
bạn kia liền nói: “Ý tôi là anh nên cầm đèn cháy sáng
để người khác nhìn thấy ánh đèn sẽ không
đụng vào anh”. Anh mù nghe ra liền cám ơn bạn và
vui vẻ cầm đèn ra về. Nhưng mới đi
được một đoạn đường thì
bỗng anh mù bị một người đi ngược
chiều đụng phải và bị té ngã. Quá tức
giận, anh lồm cồm bò dậy chửi đổng:
“Mù hay sao mà không thấy cây đèn ta đang cầm trên tay?”.
Người kia liền đáp: “Mi mới bị mù thì có! Cây
đèn trên tay mi đã bị tắt lâu rồi, mà sao mi lại
dám trách mắng ta ?”.
4) VỊ ÂN NHÂN ĐÃ PHÁT MINH RA CHỮ NỔI
CHO NGƯỜI MÙ :
LOUIS BRAILLE (1809 - 1852) sinh ra tại
Coupvray, thị trấn nhỏ miền Đông nước
Pháp. Ông được mệnh danh là “Người đem ánh
sáng cho thế giới bóng tối” vì đã phát minh ra
bảng hệ thống chữ nổi dành cho người
mù khi ông mới 15 tuổi. Phát minh của ông
được ví như một cuộc cách mạng làm thay
đổi sâu sắc cuộc sống của những
người khiếm thị trên toàn thế giới.
Năm 3 tuổi, Braille đã bị mù
cả hai mắt do bị nhiễm trùng sau một tai
nạn. Cha mẹ đã cho Braille vào học ở
trường dành cho người khiếm thị tại
Paris. Thời điểm đó, những đứa
trẻ mù được học đọc các ký tự in
nổi nhưng không thể viết ra giấy các chữ
nổi được. Nhận ra mặt hạn chế
của hệ thống chữ này, dù mới được
12 tuổi nhưng Braille đã nghĩ ra một loại
chữ viết mới mà người mù có thể cảm
nhận được bằng ngón tay, gọi là chữ
nổi Braille. Braille đã hoàn thiện nó khi được
tròn 15 tuổi. Anh đã cải tiến hệ thống chữ
cái 12 chấm xuống còn 6 chấm nhỏ gọn trên trang
giấy. Từ 6 chấm này người ta có thể
viết được tất cả các chữ cái, kể
cả các ký hiệu trong toán học và nhạc lý. Năm 1829,
Braille đã xuất bản cuốn sách chữ nổi đầu
tiên mà đến nay vẫn đang tiếp tục
được chính thức sử dụng dạy học
trong các trường khiếm thị.
Về sau Louis Braille đã bị mắc
bệnh lao phổi và qua đời khi mới
được 43 tuổi. Phát minh của ông đã
được cả thế giới thừa nhận là
một phương tiện không thể thay thế trong
lĩnh vực giáo dục người khiếm thị.
Để tri ân ông, người ta đã đặt
tượng ông trong Điện Panthéon, nơi muôn
đời ghi ơn các bậc danh nhân công thần của
nước Pháp và đã lấy tên ông đặt cho loại
chữ nổi này.
3. THẢO LUẬN:
Khi gặp
phải tai nạn hay điều rủi ro trái ý, bạn
cần làm gì để đi theo con đường “Qua
đau khổ vào trong vinh quang” của Đức Giê-su?
4. SUY NIỆM:
1) Anh mù gặp Chúa đã
được sáng mắt sáng lòng:
- Tin mừng hôm nay ghi
nhận câu chuyện về người mù thành Giê-ri-cô
đã chạy đến với Đức Giê-su không phải
nhờ con mắt thể xác nhưng nhờ con mắt
đức tin. Tuy mắt anh không nhìn thấy Đức Giê-su,
nhưng chính con mắt đức tin đã mách bảo và
dẫn đường để anh chạy đến
với Người. Trước đó anh đã nghe
đồn Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và ao
ước gặp Người để xin Người
chữa anh khỏi mù. Vì thế khi nghe thấy một
đám đông đang đến gần chỗ anh đang
ngồi ăn xin bên vệ đường và anh nghe có tiếng
của một ráp-bi đang giảng trên đường,
thì anh liền dò hỏi và được biết vị tôn
sư kia chinh là Đức Giê-su Na-da-rét, người mà anh
đã nghe danh và mong được gặp.
- Bấy giờ anh mù
liền kêu to: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đa-vít, xin dủ
lòng thương tôi!”. Dù bị nhiều người đi
trước cấm la to, nhưng anh mù lại càng kêu to
hơn với hy vọng lời kêu xin của anh thấu
tới Đức Giê-su. Quả thật Đức Giê-su
đã nghe và cho gọi anh đến gần. Nghe vậy anh
mù liền quăng chiếc áo choàng đang khoác trên mình
xuống đất, nhảy chồm dậy để chạy
mau đến gặp Người giống như anh
chưa bao giờ bị mù. Sau khi biết được lòng
tin và mong ước của anh mù, Đức Giê-su liền
tuyên bố: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu
anh!”. Lập tức anh mù được sáng mắt
để thấy được đường đi, mà
anh còn được sáng lòng để tin Đức Giê-su chính
là Đấng Thiên Sai và cùng đi theo Người lên Giê-ru-sa-lem.
2) Xin Chúa mở con
mắt đức tin cho chúng ta:
- Chúa Giê-su đã chữa lành bệnh
mù thể xác, và Người cũng chữa lành bệnh mù
tâm hồn. Chính sự mù tối tâm hồn này còn tác hại
hơn bệnh mù ngoài thể xác. Một người mù tâm hồn
là người không chấp nhận sự thật, cố
tình không muốn nhận tình thương và sự giúp
đỡ của tha nhân. Mỗi người chúng ta hãy tự
vấn lương tâm mỗi buổi tối trước
khi đi ngủ: « Hiện giờ tôi có bị mù tâm
hồn không? » Hãy cầu xin Chúa ban ơn chữa lành
như sau: “Lạy Chúa. Xin hãy mở mắt linh hồn con ra
để con thấy những kỳ công Chúa làm và dâng
lời ngợi khen chúc tụng Chúa. Xin cho con luôn biết nghĩ đến
người khác để sẵn sàng cảm thông và chia
sẻ niềm vui nỗi buồn với họ ».
- Trong giao tiếp xã hội, thay vì
chỉ nhìn các khuyết điểm lỗi lầm của
kẻ khác để chỉ trích lên án, chúng ta hãy nhìn vào mặt
tích cực của họ. Cần ý thức rằng: Dù
một kẻ tội lỗi xấu xa đến đâu thì
trong lòng họ vẫn còn ít nhất 5 phần trăm
tốt. Điều chúng ta cần làm là phải tìm ra 5
phần trăm tốt đó và nhân rộng ra để giúp
họ loại trừ 95 phần trăm điều xấu
tội lỗi còn lại trong mình.
3) Đừng ngăn cản tha
nhân đến với Chúa:
- Tin Mừng
hôm nay cũng cho thấy thái độ không phù hợp của
đám đông đi trước Đức Giê-su, khi họ
quát nạt cấm anh mù không được la lớn
tiếng. Họ giống như các đầu
mục Do thái là rào cản không cho dân chúng đến được
với Đức Giê-su, nên đã bị Người quở
trách: "Khốn
cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt
phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa Nước
Trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào,
mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng
để cho vào” (Mt 23,13).
- Chúng ta cũng sẽ trở thành rào cản, khi
ngăn chặn các tội nhân đến với Chúa
bằng những câu nói nghi kỵ và khinh dể … Chẳng
hạn: Khi thấy một người đã từng
nghiện rượu, cờ bạc, hút sách, trộm
cắp muốn hoàn lương… Lẽ ra phải động
viên khích lệ họ, thì nhiều người trong chúng ta đã
nói ra những lời nghi ngờ thiện chí muốn hoàn
lương của họ. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ trở
thành rào cản khi sống bê tha gian ác hơn người
lương chung quanh. Nhiều anh em đang có thiện
cảm và muốn theo đạo đã phải khựng
lại khi chứng kiến thái độ độc ác bóc
lột người nghèo của người công giáo, hoặc
khi thấy một số mục tử bị đưa ra
tòa án đời xét xử về những tội xấu xa…
4) Làm gì để được sáng
mắt sáng lòng mà đi theo Chúa? :
- Mỗi ngày chúng ta hãy
xin Chúa mở mắt linh hồn để nhìn thấy Chúa
đang hiện diện trong những kỳ công trong vũ
trụ thiên nhiên, nơi bản thân mình và nơi tha nhân…
rồi dâng lời ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa.
- Mỗi khi gặp tình
huống khó giải quyết, mà không biết nên làm gì cho
đúng, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa trong Kinh Thánh, tìm
hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng. Khi gặp rủi
ro thất bại, chúng ta hãy tín thác cậy trông vào Chúa quan
phòng và sẵn sàng chấp nhận con đường “Qua
đau khổ vào trong vinh quang” của Chúa khi xưa.
- Trong mọi giây phút
cuộc đời, chúng ta hãy biết khiêm tốn chạy
đến xin Chúa Giê-su mở mắt đức tin
để thấy được sự thật toàn
vẹn. Người sẽ dẫn đường chỉ
lối cho chúng ta đi theo con đường yêu
thương phục vụ của Người, giúp chúng ta sẵn
sàng bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người.
Chấp nhận cùng chết với Chúa hôm nay để được
phục sinh với Người mai sau.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su.
Xin cho con nhìn thấy
Chúa đang hiện diện trong lòng con, để con
biết năng tâm sự với Chúa.
Xin mở mắt
đức tin giúp con nhìn thấy Chúa trong thiên nhiên,
để con dâng lời ngợi khen Chúa.
Xin cho con nhìn thấy
Chúa hiện diện trong thánh lễ và nơi Nhà Tạm
để con năng đến dự lễ để nghe
Lời Chúa giáo huấn và được kết hiệp
mật thiết với Chúa khi lên rước lễ.
Xin cho con biết mở
mắt đức tin để nhìn thấy Chúa đang
hiện thân nơi những người nghèo khổ,
tuyệt vọng và bị bỏ rơi… để con
động viên an ủi và ân cần phục vụ họ như
phục vụ chính Chúa…
Nhờ đó con sẽ
nên chứng nhân cho tình thương của Chúa giữa lòng
xã hội Việt Nam hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|