HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA
NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN B
Is
50,5-9a ; Gc 2,14-18 ; Mc 8,27-35
TỪ BỎ MÌNH VÀ VÁC
THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO CHÚA
I. HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG : Mc 8,27-35
(27) Đức Giê-su và các
môn đệ của người đi tới
các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc
đường, Người hỏi các môn
đệ : “Người ta nói Thầy là ai ?
(28) Các ông đáp : “Họ bảo Thầy là ông
Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông
Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ
nào đó”. (29) Người lại hỏi
các ông : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?
Ông Phê-rô trả lời : “Thầy là Đấng
Ki-tô”. (30) Đức Giê-su liền cấm ngặt các
ông không được nói với ai về
Người. (31) Rồi Người bắt
đầu dạy cho các ông biết : Con
Người phải chịu đau khổ nhiều,
bị các kỳ mục, thượng tế
cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết
và sau ba ngày sống lại. (32) Người
nói điều đó, không úp mở. Ông
Phê-rô liền kéo riêng Người ra và
bắt đầu trách Người. (33)
Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy
các môn đệ, Người trách ông Phê-rô:
“Sa-tan! Lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư
tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của
loài người. (34) Rồi Đức Giê-su
gọi đám đông cùng các môn đệ
lại. Người nói với họ
rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình mà
theo. (35) Quả vậy, ai muốn cứu mạng
sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều
mạng sống mình vì tôi và vì Tin
Mừng thì sẽ cứu được
mạng sống ấy”.
2. Ý
CHÍNH :
Sau khi lắng nghe dư luận
quần chúng, Đức Giê-su đòi các môn
đệ phải xác định niềm tin vào
Người : “Anh em bảo Thầy là ai ?” Phê-rô đã
đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng
đức tin : “Thầy là Đấng Ki-tô”.
Từ đây Đức Giê-su bắt đầu
cho các ông biết con đường
Người sắp trải qua là : “Qua đau
khổ để vào trong vinh quang”. Người
trách Phê-rô khi ông cản Người theo con
đường này. Người đòi môn
đệ phải chấp nhận “Bỏ mình và vác
thập giá mình mà đi theo Người”.
3. CHÚ THÍCH :
- C
27-28 : + “Người ta nói Thầy là ai ?” :
Qua các môn đệ, Đức Giê-su muốn
biết người ta nghĩ gì về
Người. + Là Gio-an Tẩy Giả
tái sinh : Đây là ý tưởng
của đảng Hê-rô-đê (x. Mt 14,2). + Là Ê-li-a :
Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã từng tuyên sấm
về sứ mệnh của ngôn sứ Ê-li-a là
đi trước dọn đường cho
Đấng Thiên Sai : “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a
đến với các ngươi, trước
khi ngày của Đức Chúa đến,
ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23). +
Là một trong các vị ngôn sứ : Dân
chúng tin Đức Giê-su ít ra là Đấng
được Thiên Chúa tuyển chọn và sai
đến để giáo huấn dân Người.
- C
29-30 : + Người lại hỏi các ông :
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? : Đức
Giê-su đặt câu hỏi này với các môn
đệ để xem nhận thức của các
ông về Người ra sao. + Ông Phê-rô trả
lời : “Thầy là Đấng Ki-tô” : Phê-rô
tuyên xưng Đức Giê-su là Ki-tô hay Đấng
Cứu Thế. Đây là lời tuyên xưng
chính xác về sứ mệnh của Đức
Giê-su. Do lời tuyên xưng này mà Phê-rô đã
được Người khen có phúc (x. Mt
16,16-17). Chính Đức Giê-su cũng thừa
nhận Người là Đấng Ki-tô
trước tòa án tôn giáo (x Mc 14,61-62).
Lời tuyên xưng của Phê-rô tuy đúng, nhưng
chưa rõ ràng, vì người nghe có thể
hiểu sai về sứ mệnh cứu thế
của Người và gán cho Người sứ
mệnh Thiên Sai trần tục, đến để giải
phóng dân Do thái bằng bạo lực, thoát khỏi ách
thống trị của Đế quốc Rô-ma. +
Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông
không được nói với ai về
Người : Đức Giê-su cấm nói
ra không phải để phủ nhận lời tuyên
tín của Phê-rô, nhưng vì muốn tránh
sự cuồng nhiệt của dân Do Thái đang
thao thức muốn sử dụng bạo lực
để lật đổ nhà cầm quyền Rô-ma.
Người cấm các môn đệ nói ra Người
là Đấng Ki-tô vì Người cần có thêm
thời gian để rao giảng về sứ
mệnh cứu thế thiêng liêng theo thánh ý Thiên Chúa.
Cuối cùng, Người cấm nói ra vì
“Giờ của Người chưa đến”,
vì cần phải có Thần Khí tác
động, thì người ta mới chấp
nhận được chân lý này.
- C
31-33 : + Người bắt đầu dạy
các ông biết... : Đây là lúc
Đức Giê-su loan báo về cuộc Tử
Nạn và Phục Sinh mà Người
sắp trải qua. + Con Người : Khi
tự nhận là Con Người,
Đức Giê-su vừa khiêm tốn xưng mình là : “kẻ
hèn này”, lại vừa theo ý nghĩa
biểu tượng của văn chương khải
huyền Do Thái về Con Người là Đấng
ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Tv 110,1) và sẽ
đến trên mây trời (x. Đn 7,13-14).
Đức Giê-su đã dùng tước
hiệu Con Người nhiều hơn tước
hiệu Mê-si-a, đã bị người Do Thái
tục hóa khi hiểu theo nghĩa quyền lực
thống trị. Trong Tân Ước, từ
ngữ Con Người được
lặp đi lặp lại tới 70 lần.
Con Người có nghĩa là “Người
Tôi tớ Đức Gia-vê, bị loại bỏ và
bị giết chết và sau đó mới được
tôn vinh và sẽ ban ơn cứu rỗi cho muôn
người” (x. Mc 8,31). Trước khi xuất
hiện trong vinh quang vào ngày sau hết, Con
Người phải tự hạ, sống cuộc
đời trần thế, bị nghèo khó (x.
Mt 8,20), bị khinh dể (x. Mt 11,19), bị xúc
phạm (x. Mt 12,32), bị tử hình thập
giá (x. Ga 3,14), rồi mới vào vinh quang
Phục Sinh (x. Dt 2,6-9). Cuối cùng trong ngày
tận thế, Con Người sẽ lại
đến ngự trên ngai uy quyền mà xét xử
muôn dân (x. Mt 25,31-46). + Ông Phê-rô liền kéo riêng
Người ra và bắt đầu trách
Người : Tuy tuyên xưng Đức Giê-su
là Đấng Ki-tô, nhưng Phê-rô vẫn chưa
hiểu hết ý nghĩa của tước
hiệu này. Ông chưa hiểu rằng theo thánh
ý Thiên Chúa thì “Đấng Ki-tô phải chịu
đau khổ rồi mới vào trong vinh quang” (x Lc
24,26). Ông đã thay mặt anh em can trách
Đức Giê-su đừng chấp nhận chịu
thất bại trước rồi mới chiến
thắng. Các môn đệ bấy giờ đều
hy vọng Thầy lên làm vua Mê-si-a để các ông
được chia sẻ quyền hành (x. Lc 22,24),
được ngồi bên tả bên hữu Thầy
(x. Mt 20,21). + Người trách Phê-rô : “Xa-tan
! Lui lại đằng sau Thầy ! : Khi kéo
riêng Đức Giê-su ra can trách, ông phê-rô đang làm
công việc của Xa-tan, là cám dỗ Đức
Giê-su đi theo con đường khác với
thánh ý Chúa Cha. Nhưng Đức Giê-su ra
lệnh cho Phê-rô quay về chỗ của môn đệ
ở phía sau và phải đi theo
đường lối của Thầy (x. Mc 1,17.20; 8,34). +
Vì tư tưởng của anh không phải tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của
loài người” : Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên
sấm : ”Trời cao hơn đất chừng nào, thì
đường lối của Ta cũng cao hơn
đường lối các ngươi, và tư tưởng
của Ta cũng cao hơn tư tưởng các
ngươi chừng ấy” (Is 55,9). Ông Phê-rô
đã không hiểu thánh ý Thiên Chúa muốn
Đức Giê-su cứu thế bằng con
đường “Qua đau khổ vào vinh quang” và mời
gọi mọi người theo con đường này (x. Mt
16,21-23).
- C
34-35 : + “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình mà
theo” : Đức Giê-su đòi người ta
tự nguyện đi theo con đường này. +
Từ bỏ chính mình : “Từ
bỏ” ở đây đồng nghĩa với
“ghét” hay “yêu ít hơn” hoặc “coi
thường” bản thân mình (x. Lc 14,26; Ga 12,25). +
Vác thập giá mình : Thành ngữ
“vác thập giá mình” gợi lên thói
tục quân lính bắt tử tội phải
tự vác cây thập giá của mình đi đến
nơi hành hình. Ai muốn làm môn đệ
Đức Giê-su, cũng phải vác thập giá
mình hằng ngày mà đi theo
Người. + “Cứu mạng sống mình
thì sẽ mất. Liều mạng sống mình
vì Đức Giê-su và vì Tin Mừng
thì cứu được mạng sống
ấy”: Câu nói nghịch lý này mời
gọi người nghe quan tâm đến giá
trị đích thực của cuộc sống
ở đời sau. Một người sống
ích kỷ đời này, thì sẽ mất
đời sống vĩnh hằng đời
sau. Nhưng nếu ai sẵn sàng chịu thiệt,
chịu chết vì đức tin ở đời
này, thì sẽ được sống
đời đời do Chúa ban cho ở
đời sau.
4. CÂU HỎI
:
1) Khi được hỏi,
các môn đệ đã thuật lại cho
Đức Giê-su nghe dư luận quần chúng nói về
Người như thế nào ?
2) Phê-rô tuyên xứng Đức
Giê-su là ai ? Lời tuyên xưng ấy đúng
hay sai ? Người Do thái thời đó có
hiểu tước hiệu ấy đúng như
ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su thi hành
không ?
3) Tại sao Đức Giê-su
cấm nói ra tước hiệu Ki-tô mà Phê-rô
vừa tuyên xưng ?
4) Khi xưng mình là “Con
Người”, Đức Giê-su ngầm dạy
điều gì về vai trò và sứ
mệnh của Người ?
5) Tại sao Đức Giê-su
thích xưng mình bằng tước hiệu “Con
Người” hơn tước hiệu “Mê-si-a” hay
“Ki-tô” nghĩa là “Đấng Thiên Sai” ?
6)
Trong Tân Ước, từ “Con Người”
được nói tới bao nhiêu lần và mang
ý nghĩa gì ?
7) Tại sao Phê-rô can Đức
Giê-su đừng đi đường “qua đau khổ
vào trong vinh quang” ?
8)
Đức Giê-su đã mắng Phê-rô ra sao và
đòi ông lui lại vị trí nào ?
9)
Ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su phải
cứu độ thế gian bằng con
đường nào ?
10) Đức Giê-su đòi kẻ
muốn theo làm môn đệ của Người phải
làm gì ?
11)
“Từ bỏ mình” có ý nghĩa ra sao ?
12)
“vác thập giá mình mà theo Thầy”
nghĩa là gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA : Chúa phán : “Ai muốn theo tôi
phải từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình mà theo” (Mc 8,34):
2. CÂU CHUYỆN
:
1) "QUO VADIS ?" - THẦY
ĐI ĐÂU ? :
Thời
hoàng đế NÊ-RON của Đế quốc Rô-ma, theo thông
lệ, các nước chư hầu đều phải
gửi một người trong hoàng tộc sang Rô-ma để
làm con tin. Đây là một cách bảo đảm sự tùng
phục của các chư hầu. Trong số các con tin
ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho
người cháu của hoàng đế Néron si mê. Anh chàng này vừa có địa vị
thế lực trong triều đình, lại vừa giàu có và
thông thái. Anh tin mình sẽ chinh phục được trái
tim của người đẹp đạo công giáo. Lúc
đó bạo Chúa Nê-ron đang ra tay giết
hại các tín hữu theo đạo Ki-tô. Tông đồ Phê-rô đang ở trong thành Rô-ma lãnh
đạo một cộng đoàn tín hữu. Trước
cơn bách hại ngày một tàn khốc. Phê-rô phải nghe
lời góp ý của các tín hữu là ông hãy chạy trốn ra
ngoài thành để Hội Thánh khỏi bị tiêu diệt
hoàn toàn. Nhưng sau khi trốn
được ra ngoài thành, Phê-rô lại gặp
Thầy
Giê-su vác thập giá từ
ngoài đi vào thành. Ông hỏi "Quo vadis ?", tiếng Latinh
nghĩa là "Thầy đi đâu ?"
Đức Giê-su trả lời: “Ta vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một
lần nữa” rồi Người
biến mất. Phê-rô hiểu được ý Chúa nên đã
quay vào trong thành Rô-ma.
Sau đó ông đã bị bắt và cuối cùng chịu đóng đinh ngược đầu để
nêu gương can đảm chết vì đức tin cho các
tín hữu. Tấm gương anh dũng chết vì danh Chúa
của tông đồ Phê-rô và các tín hữu công giáo đã khiến
anh chàng hoàng gia nói trên cảm phục và cuối cùng anh
đã quyết định theo Chúa Giê-su để nên giống
như cô gái người yêu đã tin theo Chúa.
Hôm nay chúng ta sẽ trả lời thế
nào trước câu hỏi của Chúa: “Còn anh em bảo Thầy là ai
?”.
2) TRẢI QUA THỬ THÁCH ĐỂ
ĐƯỢC THÀNH CÔNG:
Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda
Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên
của nước Ít-ra-en, khi còn là
thiếu nữ đã cảm thấy thất
vọng về nhan sắc của mình. Bà đã thuật
lại giai đoạn thiếu thời ấy như sau :
“Mỗi lần nhìn vào khuôn mặt của mình
trong gương, tôi lại thầm trách sao Ông
Trời quá bất công, khi ban cho tôi một khuôn
mặt thô ráp chứ không thanh tú duyên dáng như
các bạn gái đồng trang lứa. Mãi
về sau tôi mới nhận ra rằng : Chính
khuôn mặt không mấy đẹp đẽ của tôi
lại là điều may mắn và mang lại
sự thành công cho tôi sau này. Bởi vì điều
ấy buộc tôi luôn phải cố gắng khám
phá ra các tài năng ẩn giấu nơi bản
thân và làm chúng phát triển ngày một tốt
hơn. Cuối cùng tôi rút ra được
bài học này là : Một phụ nữ
đáng quí trọng không phải do có
sắc đẹp trời cho, vì sắc
đẹp đó sẽ mau bị phai tàn theo năm
tháng. Giá trị đích thực của một
phụ nữ ở chỗ cố gắng
phấn đấu làm việc, để khám
phá ra khả năng Chúa ban, rồi phát huy biến các
tài năng đó nên phương tiện giúp
ích cho bản thân, gia đình và xã
hội…”.
GÔN-ĐA MÊ đã không còn than
khóc phản kháng hay chán nản, nhưng vui vẻ chấp
nhận thập giá đời mình, vác nó lên vai mà
bước tới và trở thành nữ Thủ tướng
đầu tiên của nước It-ra-en.
3) BÀI THƠ
“DỌC ĐƯỜNG”:
Thi sĩ RÔ-BỚT BAO-NING
HA-MINH-TƠN (Robert Browning Hamilton) trong bài thơ “Dọc
đường” (Along the Road), đã tóm
lược nội dung Tin Mừng hôm nay bằng
những lời thơ đầy ý nghĩa
như sau: “Tôi đã cùng bước đi
một quãng đường với Nữ
Thần Hoan Lạc. Dọc đường, nàng
đã cho tôi được sung sướng
bằng những lời ve vuốt tự
ái của tôi. Nhưng rồi cuối cùng tôi
chẳng thấy khôn ngoan hơn bao nhiêu. Sau đó,
tôi lại bước đi với Nữ
Thần Đau Khổ. Dọc đàng, nàng
chẳng nói một lời. Nhưng cuối
cùng tôi lại thấy mình lớn lên về kinh
nghiệm sống, về sự khôn ngoan, nhờ
trải qua các đau khổ trong suốt thời gian
bước đi bên nàng…”.
4) ĐỨC KI-TÔ BỊ
CHỐI BỎ:
Vào
năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức
một cuộc triển lãm, trong đó họa sĩ Cô-xê
(Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh mang tựa
đề: "Người bị khinh chê chối
bỏ". Họa sĩ vẽ Đức Giê-su đang đứng
trước nhà thờ chính tòa Thánh Phaolô, trong một khu
phố đông đúc tại trung tâm thành phố Luân đôn,
nhưng không một ai quan tâm tới Người:
Một
ông nọ vừa đi vừa đọc báo, suýt đụng
phải Người.
Một
khoa học gia bận bịu với những chiếc
ống nghiệm, nên không nhìn thấy Chúa.
Một
vị chức sắc thuộc hàng giáo phẩm đang hiên
ngang tiến bước mà không thấy Đức Ki-tô.
Có
một nhà thần học đang hăng say thuyết minh
về Đức Ki-tô nhưng không nhìn biết Người.
Duy
chỉ có một nữ tu là nhìn về Chúa, nhưng vẫn
tiếp tục đi con đường riêng của mình.
Ông BÁC-ĐÊ (William Barclay), một
học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận
về bức họa như sau: "Những điều này
vẫn luôn xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu
Đức Ki-tô tái xuất hiện, sẽ chẳng có ai chú
ý tới Người. Người ta còn phải bận tâm
về đủ thứ chuyện họ coi là quan trọng khác,
hơn là quan tâm tới Chúa hoặc lắng nghe Lời Chúa
dạy”.
3.
THẢO LUẬN :
Mỗi khi gặp
được những điều may lành
như ý, chúng ta thường dâng lời
tạ ơn Chúa. Nhưng khi gặp rủi ro trái
ý, chúng ta nên làm gì để thực hành
lời Chúa dạy : “Ai muốn theo tôi, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình mà theo” ?
4. SUY NIỆM :
1) “Thầy là Đấng
Ki-tô”:
- Dư luận dân Do thái coi Đức
Giê-su là Gio-an Tẩy giả tái sinh, là ngôn sứ Ê-li-a hay
một vị ngôn sứ thời xưa. Còn ông Phê-rô khi được
hỏi đã thay anh em tuyên xưng “Thầy là Đức
Ki-tô Thiên Sai”. Sau đó Đức Giê-su đã mặc
khải cho ông sứ mệnh của Người là cứu
độ nhân loại bằng con đường thập
giá: “qua đau khổ vào trong vinh quang” (x Mt 16,21).
-
Lời Đức Giê-su cho biết về việc
Người sẽ phải trải qua cuộc Tử
Nạn rồi mới vào trong vinh quang đã làm cho Phê-rô bất
ngờ. Ông đã kéo Người lại mà can trách
Người. Nhưng Đức Giê-su đã mắng ông :
"Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy. Vì anh không
nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ
nghĩ những điều của loài người".
"Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn
ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối
của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người"
(1 C 1,25).
2) “Ai
muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo” (Mt 16,24) :
Tất cả mọi thành phần dân
Chúa là hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, đều
được mời đi theo Chúa. Đức Giê-su
đòi những ai muốn theo làm môn đệ của Người
phải từ bỏ: bỏ nghề chài lưới,
bỏ tình cảm gia đình là cha già, vợ con, nhà cửa
ruộng nượng… Hôm nay Người còn đòi môn
đệ phải từ bỏ chính mình, và vác thập giá
mình mà theo Người. Vậy vác thập giá nghĩa là gì ?:
- Là từ bỏ “cái
tôi” tự ái, ích kỷ; lòng ham mê tiền bạc, danh
vọng, quyền hành và các đam mê bất chính khác. Là nên “đồng hình đồng
dạng” với Đức Giê-su Con Thiên Chúa (x Rm 8,29).
- Vác thập giá mình là biết tự
chủ, vượt lên những đòi hỏi bản
năng, nỗ lực nên hoàn thiện, là quyết tâm
lọai bỏ con người “thuộc thể”, để
mặc lấy con người “thuộc linh”
được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (x
Stk 1,26). Như vậy: “vác thập giá mình” là sẵn lòng
chấp nhận những đau khổ và rủi ro thất
bại trong cuộc sống, noi gương Đức Giê-su
đã chịu đau khổ trong cuộc khổ nạn
của Người.
- “Vác thập giá mình” cụ thể là
nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện khỏi các thói hư
xác thịt như : “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ
quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng
giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say
sưa, chè chén, và những điều khác giống như
vậy…” để đón nhận hoa quả của
Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân
hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ...
Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã
đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các
dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
3)
Vui lòng đón nhận những đau khổ gặp
phải:
-
Từ xưa đến nay, có một vấn đề nan
giải làm cho nhiều người chán nản thất
vọng là vấn đề đau khổ. Người ta
sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời
đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm
xuống với tiếng khóc của người thân. Cho
nên, Kinh Thánh nói: "Đời là thung lũng nước mắt".
Chỉ có Lời Chúa mới cho chúng ta câu trả lời
thỏa đáng: nguyên nhân gây đau khổ là tội
lỗi. "Vì ngươi đã phạm tội thì trái
đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn
vất vả, đổ mồ hôi mới có ăn và
ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro
bụi". Từ đó, đời là vũng châu lệ.
-
Chúa Giê-su được sai đến trần gian gánh
lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và
sống lại, Người cứu chúng ta khỏi tội
lỗi và sự chết. Người dùng đau khổ làm phương
thế để cứu chúng ta và dạy chúng ta phải
bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người. Chúa cũng
dạy chúng ta khi gặp đau khổ trái ý cũng đừng
thất vọng, than trời trách đất mà hãy chạy
đên với Người để được bổ
sức: “Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó
nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ
sức cho". Sắn sàng chấp nhận bỏ ý riêng mình
để vâng theo ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su.
4)
Đau khổ sẽ thanh luyện chúng ta nên thánh:
- Thiên Chúa thường
sử dụng khổ đau để rèn luyện
con người nên tốt hơn. Các vĩ nhân trên
thế giới, các thánh nhân trong Giáo
hội, đều đã trải qua muôn ngàn
khó khăn trong cuộc sống... Nhưng các
ngài không nản chí buông xuôi, mà quyết tâm
vượt qua để trở nên vĩ
đại, như Chúa Phục Sinh đã nói với hai môn
đệ làng Em-mau: “Đức
Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như
thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người
sao ?” (Lc 24,26).
- Người tín hữu chúng ta hôm nay
cũng phải chấp nhân chịu thử thách rồi
mới được thành công. Từ đây thập giá đối
với chúng ta không còn là hình khổ ghê sợ, nhưng là
phương tiện để vào trong vinh quang. Con
người ngày nay thường ngại hãm mình, không
muốn từ bỏ và ngại vất vả hy sinh…
Nhưng nếu ai muốn cuộc sống của mình có ý
nghĩa thì phải chấp nhận thử thách như
người đời thường nói : “Có công mài sắt
có ngày nên kim” “Lửa thử vàng gian nan thử đức”. Một
khi hiểu được ý nghĩa cao cả của
đau khổ thập giá, chúng ta sẽ hãnh diện nói
như thánh Phao-lô: ”Vinh dự của tôi là thập giá
Đức Ki-tô” (Gl 6,14). Từ đây thập giá trở
thành chiếc cầu duy nhất nối liền giữa
đất với trời, là phương tiện dẫn
đưa chúng ta về tới quê trời đời sau.
5. NGUYỆN
CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay nếu con
được Chúa hỏi : “Về phần con, con
bảo Thầy là ai ? ” Con sẽ phải tuyên xưng thế
nào đây ? Xin Chúa đừng để con chỉ
tuyên xưng tin Chúa ngoài môi miệng, nhưng là tin bằng
hành động : Bằng việc cầu nguyện
kết hiệp với Chúa; luôn chu toàn bổn
phận với lòng yêu mến Chúa; Biết cậy
trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan
phòng; Biết tạ ơn Chúa khi vui cũng như lúc
buồn, khi thành công cũng như lúc thất
bại... Vì biết rằng tất cả
những gì Chúa để xảy đến,
đều là hồng ân của Chúa, và đều
mang lại ích lợi cho phần rỗi
đời đời của con. Xin giúp con
năng nhìn lên thánh giá của Chúa,
để học sống tình thương hiến thân
quảng đại của Chúa, như Chúa đã
dạy: “Không có tình thương nào cao cả
hơn tình thương của người
đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu
mình” (Ga 15,13).
X.
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ. XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM
|