HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CHÚA
NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN B
Gs 24,1-2a.15-17.18b ; Ep 5,21-32 ; Ga
6,54a.60-69
CHỌN TIN VÀ
SỐNG THEO LỜI CHÚA VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga
6,54a.60-69
(54a) Khi
nghe Đức Giê-su tuyên bố : “Ai ăn Thịt và
uống Máu Tôi, thì được sống muôn
đời”, (60) nhiều
môn đệ của Người liền nói :
“Lời này chướng tai quá ! Ai mà
nghe nổi ?” (61) Nhưng
Đức Giê-su tự mình biết
được là các môn đệ đang
xầm xì về vấn đề ấy,
Người bảo các ông : “Điều đó,
anh em lấy làm chướng, không chấp nhận
được ư ? (62)
Thế thì anh em thấy Con Người lên
nơi đã ở trước kia thì sao ?
(63) Thần Khí mới
lam cho sống, chứ xác thịt chẳng
có ích gì. Lời Thầy nói với
anh em là Thần Khí và là Sự
Sống. (64) Nhưng trong anh em
có những kẻ không tin”. Quả thật, ngay
từ đầu, Đức Giê-su đã
biết những kẻ nào không tin, và kẻ
nào sẽ nộp Người. (65) Người nói tiếp :
“Vì thế, Thầy đã bảo anh em : Không ai
đến với Thầy được, nếu
Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. (66) Từ lúc đó,
nhiều môn đệ rút lui, không còn đi
với Người nữa. (67) Vậy Đức Giê-su
hỏi Nhóm 12 : “Cả anh em nữa, anh em cũng
muốn bỏ đi hay sao ?” (68)
Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Thưa Thầy,
bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai ? Thầy mới có những
Lời đem lại sự sống đời
đời. (69) Phần
chúng con, chúng con đã tin và nhận
biết rằng : Chính Thầy là Đấng
Thánh của Thiên Chúa”.
2.
Ý CHÍNH :
Sau khi nghe Đức Giê-su giảng về
Bánh Hằng Sống, là bí tích Thánh
Thể mà Người sẽ ban, thì thính
giả chia thành hai phe : Một số khá đông,
trong đó có cả các môn đệ của
Người, cho rằng lời ấy chói
tai, không thể chấp nhận được và
đã bỏ không còn đi theo Người
nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được
hỏi ông Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm
tuyên xưng đức tin : “Bỏ Thầy thì
chúng con biết đến với ai ? Thầy
mới có những Lời đem lại
sự sống đời đời” (c. 68).
3.
CHÚ THÍCH :
- C 54a.60 : +
Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì
được sống muôn đời : “Thịt
và Máu” Đức Giê-su là Bánh Thánh
Thể sẽ được Người ban trong
bữa tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do
đó Thịt và Máu Đức Giê-su
nói đây chính là Thánh Thể của
Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn
và phục sinh, như một hy lễ đền
tội để ban sự sống cho trần gian. +
Nhiều môn đệ của Người : Môn
đệ là những người nhận
Đức Giê-su làm Thầy (Ráp-bi), nghe và
thực hành Lời Chúa, tích cực
cộng tác với Người thi hành
sứ vụ tông đồ. Đức Giê-su có
hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc
10,1) và Nhóm mười hai (x Ga
6,66). + “Lời này chướng tai quá !
Ai mà nghe nổi ?” : Khi nghe Đức Giê-su
nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho
người ta ăn uống, thì các môn
đệ cũng như đám đông dân Do Thái
không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt
mình ra cho người khác ăn, hay lấy
máu mình cho người khác uống ! Đàng khác, Luật Mô-sê
cấm ăn máu huyết, vì máu
được coi là sinh khí tụ lại,
được dành riêng cho chủ tể của
sự sống là Đức Chúa như Luật
Mô-sê : “Các ngươi không được ăn
máu huyết của bất cứ xác thịt
nào, vì mạng sống của mọi xác
thịt là máu của nó. Bất cứ ai
ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv
17,14).
- C 61-62 : +
Điều đó, anh em lấy làm
chướng, không chấp nhận được
ư ? : Ba điều người Do Thái
và môn đệ xầm xì không chấp nhận :
Một là Đức Giê-su tự nhận mình
là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ
xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn phải
chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình
từ trời mà đến, đang khi họ
biết rõ tông tích của Người (x Ga
6,42). Ba là Người khẳng định :
“Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi
thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật
Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con
vật chết ngạt, vì còn có máu trong
thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con
Người lên nơi đã ở
trước kia thì sao ? : Đức Giê-su
cho các môn đệ bằng chứng để
tin Người là Đấng Thiên Sai và tin
lời Người giảng là sự
thật. Bằng chứng ấy là Người
sẽ từ cõi chết sống lại và lên
trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13),
như thị kiến về vai trò và sứ
mệnh của Con Người trong sách Ngôn
Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).
- C 63-64) : +
Thần khí : Là một từ ngữ
mang nhiều ý nghĩa như sau : Một là gió, với đặc tính vô hình (x Ga 3,8). Gió
có khi trở thành bão để
Đức Chúa trút cơn lôi đình
hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai
là hơi thở :
Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức
mạnh nâng đỡ và là điều kiện
giúp thân xác sống động. Con người
sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên
Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba là linh hồn : Bao lâu Thần khí còn
ở với con người, nó biến
xác thịt bất động thành sống
động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết
là khi con người trút hơi thở
trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6 ; Lc 23,46).
Bốn là một đặc
tình của Thiên Chúa : “Thiên Chúa là
Thần Khí” (Ga 4,24) nên
người ta phải thờ phượng Thiên
Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga
4,24). + Thần khí mới làm cho sống,
chứ xác thịt chẳng có ích
gì ! : Việc tạo dựng con
người đã được sách
Sáng Thế thuật lại như sau : “Đức
Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất
nặn ra con người, thổi sinh khí
vào lỗ mũi, và con người trở
nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt
chỉ là bụi đất, không thể sống
động nếu không được Thiiên Chúa
phú ban thần khí là linh hồn. Chính
thần khí ấy mới làm cho con
người sống động. Khi thân xác
ngừng thở là lúc thần khí
xuất ra khỏi thân xác, và khi ấy thân xác trở
thành xác chết, nên chẳng còn ích
gì ! + Lời Thầy nói với anh em
là Thần Khí và là Sự Sống : Lời
Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là
Lời phát xuất từ Thiên Chúa,
nhằm mặc khải các mầu nhiệm
và các việc làm của Thiên Chúa cho
loài người (x. Xh 20,2), các giới
răn và các điều sắp xảy
đến (x. St 15,13-16). Lời Chúa sẽ ban
Sự Sống đời đời cho con
người (x. Ga 6,68), nếu họ biết
lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x.
Lc 1,34.38), tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là
đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay
từ đầu, Đức Giê-su đã
biết những kẻ nào không tin, và kẻ
nào sẽ nộp Người : Ngay từ
đầu, Đức Giê-su đã có cái
nhìn tiên tri và thấy trước sự
bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng
Gio-an viết như sau : “Người biết ai sẽ
nộp Người, nên mới nói “Không phải
tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).
- C 65-66 :
+ Không ai đến với Thầy được
nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho : Đức
tin là một ơn do Thiên Chúa ban cho loài
người, để họ tin Đức Giê-su
là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng
Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực
hành Lời Chúa dạy để
được vào Nước Trời
và sẽ được sống muôn đời
(x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn
đệ rút lui, không còn đi với
Người nữa : Lý do nhiều môn
đệ bỏ Đức Giê-su là do họ không
tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40),
không tin Người là Bánh Trường Sinh
từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không
chấp nhận lời tuyên bố Người
sẽ lấy Thịt mình cho họ ăn (x. Ga 6,52). +
Nhóm Mười Hai : Đức Giê-su
đã lên núi và gọi đến với
Người những kẻ Người
muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm,
Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy
mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13).
Nhóm Mười Hai này tượng trưng
cho mười hai chi tộc dân Ít-ra-en Mới
là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ
được ngồi trên mười hai tòa,
mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x.
Mt 19,28). Các ông sẽ được sự
sống đời đời (x Mt 19,29),
được “quyền trên các thần ô uế,
để các ông trừ chúng và chữa
hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc
9,1), “Người sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Nước
Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
- C 67-69 : +
Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi
hay sao ? : Trước mặc khải về
bí tích Thánh Thể, Đức Giê-su
đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ
thái độ dứt khoát : Tin hay không tin,
thể hiện qua việc tự do chọn ở
lại với Thầy hay bỏ đi. + Ông Si-mon
Phê-rô liền đáp : “Bỏ Thầy thì
chúng con biết đến với ai ? Thầy
mới có những Lời đem lại
sự sống đời đời” : Dù
chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời
Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm 12
chọn ở lại làm môn đệ Thầy
và khẳng định niềm tin Lời
Thầy là sự thật và sẽ mang lại
sự sống đời đời cho
những ai đón nhận (x. Ga 5,24). + “Chính
Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” : Trước
đó, Si-mon đã tuyên xưng : “Thầy là
Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt
16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận
Đức Giê-su là “Đấng Thánh của
Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần
Gap-ri-en khi truyền tin đã cho Đức Ma-ri-a biết
về trẻ Giê-su như sau : “Vì thế, Đấng Thánh
sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là
Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
5. CÂU
HỎI : 1) Tại sao dân Do thái và một số
khá đông môn đệ đã bỏ không đi theo
Đức Giê-su nữa ? 2) Môn đệ là
những ai và Đức Giê-su có bao nhiêu môn
đệ ? Tông đồ là ai và khác
với môn đệ thế nào ? 3) Người
Do thái và các môn đệ lấy làm gai
chướng không chấp nhận ba điều nào
của Đức Giê-su ? 4) Đức Giê-su
đưa ra bằng chứng nào cho thấy
Người có quyền nói ra những
điều mầu nhiệm ấy ? 5) Trong Kinh thánh,
thần khí mang bốn ý nghĩa nào ? 6)
Đức Giê-su đã nói gì về thần
khí và xác thịt nơi mỗi con
người ? 7) Tại sao Đức Giê-su lại
nói Lời Người chính là Thần
khí và là Sự sống ? 8) Đức Giê-su
biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là
người không tin và sẽ phản nộp
Người ? 9) Đức Giê-su chó biết
đức Tin phát xuất từ đâu ? Ta
phải làm gì để giúp người
khác tin vào các mầu nhiệm
được mặc khải ? 10) Lý do nào khiến
nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo
Đức Giê-su ? 11) Nhóm 12 Tông đồ do
Đức Giê-su tuyển chọn từ Nhóm
nào ? Nhóm Tông đồ được
Người hứa ban các quyền lợi
nào và phải chu toàn sứ mệnh gì
? 12) Si-mon Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai
trả lời thế nào khi được
Đức Giê-su hòi có muốn bỏ đi hay
không ? Ý nghĩa của câu trả lời
đó thế nào ? 13) Si-mon đã tuyên xưng
Đức Giê-su là ai ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: Ông Si-mon Phê-rô liền đáp :
“Bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai ? Thầy mới có những
lời đem lại sự sống đời
đời” (x. Ga 6,68) :
2. CÂU CHUYỆN:
1) DÂN ÍT-RA-EN ĐÃ CHỌN TIN
VÀO ĐỨC CHÚA VÀ TUÂN GIỮ LỀ LUẬT CỦA NGÀI:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê
là một bản tường thuật mang nhiều
ý nghĩa quan trọng.
- Vào khoảng năm 1200 trước
Công Nguyên, con cháu Gia-cóp đã được Mô-sê cứu
khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập để vào sa
mạc tiến về hứa địa. Họ đã được
Đức Chúa thanh luyện từ một dòng tộc con
cháu Gia-cóp trở thành một dân tộc Ít-ra-en, ký kết giao
ước với Đức Chúa.
- Sau 40 năm lưu lạc trong hoang địa,
dân Ít-ra-en đã đến được sông
Giô-đan, giáp ranh xứ Ca-na-an; Đây là Hứa
Địa, được Đức Chúa hứa
ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn
đời. Mô-sê trao cho Gio-su-ê quyền lãnh
đạo dân Chúa để đánh chiếm lại Hứa
Địa Ca-na-an. Được Đức
Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chinh
phục được các dân địa phương và chiếm
được Hứa Địa.
- Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu
tập các chi tộc Ít-ra-en và các
đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông
cho dân Ít-ra-en tự do chọn lựa : Hoặc
là tôn thờ Một Đức Chúa duy
nhất, hoặc tin theo các tà thần của
chư dân. Dân cũng được tự do
chấp nhận hay từ chối Lề Luật,
được chọn trung thành hay chống
lại Giao Ước mà họ đã ký
với Đức Chúa tại núi Khô-rép
miền Si-nai...
- Bấy giờ toàn dân thưa lại
rằng : “Chúng tôi không hề có ý lìa
bỏ Đức Chúa để phụng
thờ các thần khác ! Vì chính
Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi,
đã đem chúng tôi cùng với cha ông
chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ
nhà nô lệ, đã làm trước
mắt chúng tôi những dấu lạ
lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên
suốt con đường chúng tôi đi,
giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang
qua. Đức Chúa đã đuổi cho
khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng
như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).
2)
SẴN SÀNG CHẤP NHẬN CÁI CHẾT ĐỂ BÀY TỎ
LÒNG TRUNG THÀNH VỚI ĐỨC TIN:
Thời
vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có
một sĩ quan xuất sắc lừng danh là MA-RANH, bách
chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp
được thăng đại tướng và chính ông
cũng nghĩ như thế. Nhưng Ma-ranh là một người
Công giáo có đức tin vững mạnh. Ông luôn xin Chúa ban ơn trung thành với đức
tin khi chịu phép rửa tội. Lúc đó, có một viên đại
tướng của quân đội Rô-ma bị chết
bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền cho mời Ma-ranh
đến và nói: "Tôi vừa được lệnh nhà
vua để gọi ngài lên chức đại
tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền
tổng chỉ huy cho ngài, nhưng có người cho
biết ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không muốn để
bất cứ người Công giáo nào trong hàng ngũ sĩ
quan quân đội hoàng gia. Vậy xin ngài cho biết ngài có
phải là người Công giáo không?". Ma-ranh đã
khẳng định : "Thưa ngài, đúng thế, tôi là
người Công giáo". Viên toàn quyền nghiêm nghị nói :
"Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để
nghĩ lại, nếu chối Giê-su thì ngài sẽ làm
đại tướng. Bằng không ngài sẽ phải
chết".
Ma-ranh
ra về, đến gặp vị giám mục và kể
lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục
cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung
thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn
đời trung thành với Chúa Ki-tô. Rồi vị giám
mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt
bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: "Này
Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, ông phải chọn
một trong hai. Xin ông nhớ lại ngày rửa tội,
rồi tùy ý ông quyết định". Ma-ranh can
đảm chọn cầm sách Tin Mừng và nói : "Con xin
thề trung thành với Chúa". Vị giám mục âu
yếm nhìn Ma-ranh và nói : Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ
là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con
đại thắng". Và hôm đó, Ma-ranh đã bị đổ
máu vì đức tin Công giáo.
Trong
cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa
chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các
vị tử đạo, nhưng rất có thể chúng ta
phải chọn giữa nhiều thử thách, đòi chúng ta
phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa
mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh
để chúng ta vượt qua những khó khăn thử
thách ở đời này, nhất là về đức tin.
3) GƯƠNG TÍN THÁC VÀ
VÂNG LỜI CHA:
Ngày
xưa có một ông vua, ông có hai người con. Ông muốn
thử xem con nào là đứa con khôn để ông trao
lại quyền cai trị của ông sau khi ông qua
đời. Ông lấy một viên kim cương thật quí
gói trong một chiếc túi giấy xấu - còn viên kim
cương giả bằng thủy tinh thì ông bỏ vào
một cái hộp trang trí rực rỡ. Sau đó ông cho gọi
2 đứa con lại. Ông cho người con cả
chọn trước, cậu con cả nhìn hai gói, thấy túi
giấy xấu nên đã bỏ qua và chọn cái hộp
đẹp.
Sau
đó đến phiên người con út. Anh ta quan sát hai món
đồ. Sau một phút suy nghĩ anh nhìn cha và nói :
“Thưa cha, xin cha lựa giúp con”.
Và đức vua đã tìm ra người
sẽ kế vị mình. Sau đó đức vua đã truyền
mở gói quà được bọc trong túi giấy xấu ra
khiến mọi người đều ngỡ ngàng. Sau
đó đức vua truyền cho thợ kim hoàn thiết
kế một mũ triều thiên thật đẹp và viên
kim cương thật đã được đính lên mũ
triều thiên đó. Rồi đức vua cho chiếc triều
thiên này vào một chiếc hộp bằng vàng đẹp hơn
chiếc hộp kia ngàn lần. Cuối cùng đức vua
đã tuyên bố với thần dân rằng : “Mai sau con
út trẫm sẽ lên nối ngôi trẫm và trong ngày
đăng quang sẽ đội chiếc vương
miện quý giá này”. Sở dĩ người em
được chọn vì anh ta đã biết tín thác vào cha
và luôn làm theo ý cha.
4) PHÉP LẠ BÍ TÍCH THÁNH THỂ Ở LAN-XI-A-NÔ:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lou-gi-no
ở Lan-xi-a-nô bên I-ta-li-a, có một linh mục tên là BA-SI-LI-Ô
hoài nghi về mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện thực
sự dưới hình bánh rượu sau lời truyền
phép trong thánh lễ. Chúa Giê-su Thánh Thể đã làm một phép
lạ lớn lao còn lưu truyền đến ngày nay,
như một bằng chứng hùng hồn về bí tích Thánh
Thể. Đó là phép lạ LAN-XI-A-NÔ.
Hôm ấy sau khi linh mục Ba-si-li-ô
đọc lời truyền phép trong thánh lễ, tấm bánh
miến liền biến thành Thịt Chúa và rượu nho trong
chén thánh liền biến thành Máu Chúa Giê-su Vào năm 1713. Từ
đó đến nay Thịt Máu Chúa vẫn luôn tồn
tại. Thịt Máu Chúa đã được lưu giữ
trong một chiếc Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang Thánh
Thể Lan-xi-a-nô. Đến năm 1971, tòa thánh đã cho phép
các nhà khoa học được xét nghiệm phép lạ này.
Kết quả xét nghiệm cho thấy Thịt đó là
một thớ thịt trái tim, và Máu đó là máu người
nhóm AB. Nên nhớ vết máu trên chiếc khăn liệm thành
Tu-ri-nô cũng thuộc về nhóm máu AB. Ngày nay, Thịt và
Máu Chúa tiếp tục được lưu giữ trong nhà
tạm tại nhà thờ thánh Phan-xi-cô, một trung tâm hành hương nổi
tiếng của thế giới.
Trong Tin Mừng hôm nay,
sở dĩ nhóm môn đệ thứ nhất đã bỏ đi
không còn theo Thầy vì chỉ nghĩ đến bản thân
: “Sao ông này lại có thể lấy thịt
mình cho chúng ta ăn ?”(Ga 6,52), đang khi nhóm Tông Đồ
chỉ nghĩ đến Chúa qua lời tông đồ Phê-rô
: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới
có những Lời đem lại sự
sống đời đời” (Ga
6,68).
3. THẢO LUẬN : 1) Người
ta thường bị khủng hoảng đức
tin là do những nguyên nhân nào ? 2) Một tín
hữu bị khủng hoảng về đức
Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ
và hành vi nào ? 3) Chúng ta phải làm
gì để giúp một người đang
bị khủng hoảng đức Tin sớm
lấy lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh ?
4. SUY
NIỆM :
1) Tự do chọn “tin hay không tin” :
Như dân Ít-ra-en
xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng
có quyền tự do chọn tin hay không tin vào Đức
Giê-su để đức tin có giá trị giúp đón
nhận ơn cứu độ của Chúa. Khi chịu
phép Thánh Tẩy, các dự tòng cũng phải công
khai chọn thái độ từ bỏ ma quỉ tội
lỗi và tuyên xưng đức tin vào các chân
lý đức tin như Hội Thánh dạy,
trước khi được chủ sự đổ
nước trên đầu hoặc dìm mình họ
trong giếng nước rửa tội để
được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.
Trong đời sống
thường ngày, các tín hữu
chúng ta cũng cần khẳng định đức
tin như dân Ít-ra-en xưa đã khẳng định
niềm tin vào Đức Chúa: “Không thể có chuyện
chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn
thờ các tà thần của dân ngoại”.
Sự chọn lựa tin theo Chúa đòi các tín
hữu chúng ta không ngừng hồi tâm sám hối
để thanh luyện đức tin của mình.
2)
Cần dứt khóat chọn tin theo Chúa :
Trong Tin
Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng đòi
Nhóm Mười Hai Tông đồ phải
dứt khoát chọn tin hay không khi đối diện
với bí tích
Thánh Thể do Người thiết lập: “Thịt Tôi thật
là của ăn và Máu Tôi thật là của
uống !”. Khi nghe mầu nhiệm này, nhiều môn
đệ đã phản
đối và rút lui không còn đi theo Người
nữa. Riêng ông Phê-rô khi được Thầy hỏi,
đã đại diện Nhóm Mười Hai tông đồ tuyên
xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng
con biết đến với ai ? Thầy mới
có những Lời đem lại sự
sống đời đời.
Phần chúng con, chúng con đã tin và
nhận biết rằng: Chính Thầy là
Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Qua câu này, ông Phê-rô
đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin dù ông chưa
hiểu rõ nội dung mầu nhiệm bí tích Thánh Thể Thầy
vừa mặc khải. Ông tin vì dựa vào Lời Thầy
và vào thế giá của Thầy.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đòi
chúng ta khẳng định lập trường tin Chúa hay không
? Chúng ta có chọn ở lại với Thầy đang khi
nhiều bạn bè khác bỏ Chúa qua việc không đến
nhà thờ dự lễ Chúa Nhật, hành xử theo ý riêng mình
chứ không theo Lời Chúa và lề luật Hội Thánh ?
Chúng ta có trung thành chọn làm điều tốt trong khi đại
đa số bạn bè chọn theo lối sống dễ dãi
phù hợp với tính xác thịt và làm theo các đam mê
lạc thú bất chính, chọn chối bỏ Chúa trong lý
lịch để hy vọng được hưởng các
đặc quyền đặc lợi và địa vị
xã hội ? Có lẽ phần đông chúng ta đã chọn
thái độ lim lặng. Phải chăng thái độ
đó đồng nghĩa với sự phản bội của
Giu-đa, được Tin Mừng Gio-an cho biết: “Quả thật ngay
từ đầu, Đức Giê-su đã
biết những kẻ nào không tin, và kẻ
nào sẽ nộp Người” (Ga 6,64b). Tuy trong thâm tâm Giu-đa đã
không tin Thầy và quyết tâm phản Thầy, nhưng vẫn
ở lại Nhóm Mười Hai là để chờ cơ
hội ! (x. Ga 13,21-27; Mt 26,14-16).
3) Đức tin vào bí tích Thánh
Thể phải dựa trên Lời Chúa :
Khi tuyên xưng đức tin thì không phải ông Phê-rô đã hiểu biết mầu
nhiệm bí tích Thánh Thể, nhưng chỉ vì ông
đã tin “Thầy là Đấng Thánh của
Thiên Chúa”, tin Thầy là Đấng quyền năng đã
từng nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no; Đã
từng đi trên mặt biển và phán một lời
là dẹp yên sóng gió; Đã từng xua trừ ma quỷ ra
khỏi nhiều người bị ám; Đã từng
đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân và phán
một lời là kẻ chết sống lại… Chính
nhờ đức tin vào quyền năng của Chúa,
mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã tin
cả những điều khó nghe, khó hiểu và khó
chấp nhận về bí tích Thánh Thể:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54a).
4) Cần làm gì để tin vào
bí tích Thánh Thể ? :
“Đây là mầu nhiệm đức tin”, vượt
trên sự hiểu biết khả giác của lòai
người, nên để tin vào bí tích này, mỗi tín
hữu chúng ta cần có ba điều kiện như sau :
- Một là phải lắng nghe và suy niệm Lời
Chúa như tông đồ Phao-lô dạy : “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe
giảng là nghe công bố Lời Đức Ki-tô” (Rm
10,17). Do đó, để tin vào mầu nhiệm bí tích Thánh
Thể, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa khi tham dự
thánh lễ hoặc dự các buổi họp nhóm học
sống Lời Chúa, rồi còn phải “suy niệm Lời Chúa trong lòng” noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).
- Hai
là phải xác tín vào Lời Chúa
Giê-su như ông Phê-rô đã thưa với Chúa :“Bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai ? Thầy mới
có những Lời đem lại sự
sống đời đời. Phần chúng con,
chúng con đã tin và nhận biết
rằng : Chính Thầy là Đấng Thánh
của Thiên Chúa” (Ga
6,68-69).
- Ba là phải ý thức đức
tin là do ơn Chúa ban như lời Đức Giê-su: “Không ai đến
với Thầy được, nếu Chúa Cha
không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Do đó, để tin vào mầu nhiệm Chúa Giê-su
hiện diện trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cần năng
cầu xin Chúa Giê-su ban thêm
đức tin cho mình, như lời cầu của người
cha có con bị quỷ ám :"Tôi
tin ! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).
5. LỜI CẦU :
LẠY
CHÚA GIÊ-SU. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác mà chưa
được nhậm lời, con đã nản
lòng thất vọng, thể hiện qua việc bỏ
dự lễ Chúa Nhật và không còn tin
tưởng cầu xin Chúa nữa, mà chạy
đến với thầy bùa thầy ngải của lương
dân. Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa đã
ngán ngẩm trước đức tin vụ
lợi của đám đông dân chúng và
các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa cũng
đang ngán ngẩm khi thấy con cũng chỉ biết
lo tìm kiếm lợi lộc tiền bạc vật chất,
và dửng dưng trước những ơn ích
thiêng liêng phần hồn. Xin Chúa giúp con thực thi theo Lời
Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm
Nước Thiên Chúa và đức công chính
của Người, còn tất cả những thứ
kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|