Sai đi –
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Vào thế kỷ thứ 8 trước khi Chúa Giêsu sinh ra,
sau một cuộc tranh chấp ác liệt, đất Do thái
bị chia làm đôi: hai chi tộc phía Nam là Giuđa và
Bengiamin làm thành quốc gia Giuđa với Giêrusalem là thủ
đô; mười chi tộc còn lại ở phía Bắc
lập thành nước Israel với Samaria là thủ
phủ. Dưới triều đại của Giêrôbôam II
(786-726 BC), đất nước Israel trở nên hưng
thịnh. Vương quốc được mở mang và
trở nên giàu có.
Để lôi kéo thêm dân chúng từ các nơi về, và
để dân trong nước không đi lên đền
thờ Giêrusalem trong các dịp lễ, Giêrôbôam và các vua
trước ông đã cho lập đền thờ tại
Bethel, cách Giêrusalem chừng 14 dặm Anh về phía bắc.
Hàng tư tế tại đây được ưu đãi
và khuyến khích lập ra những lễ nghi đặc
biệt, để tạo nên không khí huy hoàng và sầm
uất, hầu làm lu mờ những hình ảnh sinh hoạt
tôn giáo tại Giêrusalem. Đây là một mưu đồ
chính trị nhằm củng cố việc chia đôi
đất nước và phân rẻ một dân tộc mà
Giavê đã tuyển chọn nhằm tái tạo sự
hiệp nhất giữa trời cao với đất
thấp-giữa Thiên Chúa và con người.
Nhưng Giavê không thể làm ngơ trước cảnh
tượng đó. Ngài đã chọn Amos, một
người chăn chiên tại Tekoa, bên bìa sa mạc
Giuđa, để đi làm ngôn sứ cho Giavê Thiên Chúa bên
nước Israel.
Nhân danh Thiên Chúa, Amos cảnh cáo những âm mưu nuôi
dưỡng tình trạng chia rẽ để trục
lợi, lên án những cuộc sống sa đoạ bất
công trong xã hội, công kích sự an tâm giả tạo khi
người ta lấy lễ nghi tôn giáo để che
đậy cho những việc làm xấu xa.
Sau một thời gian ngắn thi hành sứ vụ
tại Bethel và Samria, Amos đã bị trục xuất ra
khỏi Israel.
Khi mà quyền lợi cá nhân bị đụng chạm,
miếng cơm bị đe doạ, người ta khó lòng
để yên. Vì thế Amasia, một tư tế của
đền thờ Bethel đã cậy vào uy thế của
vua Giêrôbôam và nhân danh hàng tư tế của vương
quốc miền Bắc để đuổi Amos về
lại Giuđa. Ông cho Amos là hạng thầy bói nói mò hòng
kiếm miếng cơm. Amasia cấm Amos không
được tuyên sấm ở Bethel nữa, vì theo ông,
những sứ điệp đó không phù hợp với
đường lối chính trị của nhà vua và cả
vương quốc Israel.
Nhưng ngôn sứ Amos không chấp nhận lập
luận của Amasia. Ông khiêm nhường nói với vị
tư tế bụt thần này rằng ông không làm nghề
tiên tri, cũng không phải là con của một tiên tri.
Trước kia ông chẳng hề nghĩ đến
việc đi tuyên sấm, ông chỉ biết chăn chiên và
hái trái sung. Nhưng rồi một hôm, đang lúc bước
theo đàn chiên, Giavê Thiên Chúa đã gọi ông và truyền
phải đi tuyên sấm cho nhà Israel, cảnh báo họ
về một tai hoạ khủng khiếp sẽ giáng
xuống: quân thù dày xéo đất nước, tàn sát dân
chúng, bắt đi lưu đày những kẻ còn sống
sót (Am 7:17).
Như vậy việc Amos đi loan truyền sứ
điệp tiên tri cho các vua quan, tư tế, và dân chúng,
không vì khả năng tự nhiên hay tài đức hơn
người, song là vì Giavê đã trao Lời và sai ông ra
đi. Thế nên sứ mạng của ông không gì khác hơn
là nói lại Lời đó trong vai trò của một ngôn
sứ. Có thể sứ điệp do ông truyền
đạt sẽ được nhiều người
đón nhận, nhưng cũng không chắc tránh khỏi
tình cảnh bị từ khước, xua đuổi, hay
giết hại. Dẫu sao, người được sai
đi vẫn ra đi và không ngừng tiến bước.
Không nản lòng. Không thất vọng. Không đầu hàng.
Đó mới là thái độ của người môn
đệ Đức Kitô.
Phúc âm tường thuật việc Chúa Giêsu sai
mười hai tông đồ đi đến các làng
mạc miền Galilê, rao giảng sự ăn năn
thống hối. Ngài thấy trước những thất
bại có thể sảy ra, và sự thất bại đáng
kể nhất sẽ là bị khước từ. Song
thất bại không thể là yếu tố làm chùn
bước chân của vị sứ giả Tin Mừng.
Bởi vì như lời Đức Giêsu phán dạy: “Nếu
nơi nào không tiếp đón các ngươi thì hãy ra
khỏi chỗ đó, phủi bụi chân lại” (Mc 6:11)
rồi tiếp tục tiến bước. Cũng như
trong bài Phúc âm tuần trước, khi bị những
người đồng hương đồng hạt
khinh dể thì “Chúa Giêsu đã rảo qua các làng xung quanh và
giảng dạy” (Mc 6:6b).
Khách quan mà xét, hành trình rao giảng của Chúa Giêsu
cũng có thất bại, nhưng không vì đó mà Ngài
thất vọng ngã lòng. Trái lại Ngài vẫn tiến
bước ra đi. Đi cho đến chặng
đường cuối cùng là thập giá.
Như thế, người tông đồ của Đức
Kitô cũng không thể tránh khỏi thập giá, vì “môn
đệ không thể hơn thầy.” Nhưng dù có gặp
từ khước, khó khăn, trắc trở, lao tù,
xiềng xích trên hành trình rao giảng, Lời Chúa vẫn
“không bị xích xiềng” và “Đức Kitô vẫn
được truyền rao” (Ph 1:18).
Thế nhưng tôi tự hỏi: Nếu ngày nay Lời
Chúa bị xiềng xích và Đức Kitô không
được rao truyền là bởi các lý do bên ngoài hay
những yếu tố bên trong? Vì người ta không nghe Tin
Mừng tôi loan báo hay vì những tham lam, lợi nhuận,
bất công, và cả những hình thức, lễ nghi trang
trọng nhưng vô hồn, như của dân Do thái trong
thời ngôn sứ Amos, đã trói buộc chân lý Phúc âm?
Thế nên, Lời Chúa lại nhắc nhở tôi về
thái độ nghèo khó để được tự do
trong khi rao giảng: không mang bị mang bánh, không mang tiền
trong túi, không mặc tới hai áo. Giá trị của Tin
Mừng không hệ tại nơi áo quần, tiền
bạc, cơm bánh. Chúa Giêsu không chọn con đường
cứu nhân độ thế bằng sự đáp ứng
của cải vật chất, song là chính Lời Hằng
Sống của Ngài.
Vì vậy, hành trang rao giảng của người môn
đệ Chúa Kitô phải luôn là Đức Giêsu Kitô-Lời
Thiên Chúa mà họ tiếp cận và tìm thấy “sự
sống phong phú dồi dào” (Ga 10:10b)-chứ không phải bao
bị, giày dép, tài năng, bạo lực hay bạc
tiền. Đây cũng chính là nguyên lý căn bản mà Giáo
hội đã dùng để trả lời cho thần
học “giải phóng” khi xác định: Chỉ có “chân lý
mới giải thoát con người” (Ga 8:32). Và chân lý đó
chính là Đức Giêsu. Vì Ngài là đường, là chân lý, và
là sự sống cho nhân trần mọi thời và mọi
nơi.
|