5
ĐOẠN KINH THÁNH KHÓ HIỂU
Các
đoạn Kinh Thánh khó hiểu chỉ là
một vấn đề bởi vì chúng ta
không tiếp cận đúng cách. Có
thể do chúng ta quá coi trọng nghĩa
đen (hoặc không hiểu nghĩa đen đúng
mức), cách xử lý bản văn, coi
hành động của con người được
Thiên Chúa chấp thuận, dựa vào
các bản dịch sai sót hoặc không
hiểu đúng nghĩa vì khoảng cách
thời gian, địa lý và văn hóa
mà điều đó được viết
ra.
Đó
là sai lầm của con người, không
do Thiên Chúa, và cần sự hứa
hẹn thông minh. Họ dễ bắt chước,
mà internet đầy những kẻ ba phải,
họ hùa theo nhau mà không hiểu ý
nghĩa đích thực. Không có những
vấn đề khó được đặt
ra mà lại được trả lời nhiều
lần. Điều bạn cần là sẵn
sàng tìm ra câu trả lời.
1.
CHẶT TAY
“Khi
hai người đàn ông đánh nhau,
mà vợ của một trong hai người lại
gần để cứu chồng khỏi tay địch
thủ và đưa tay nắm lấy chỗ
kín của người này thì anh em
phải
chặt tay
người đàn bà ấy. Mắt anh em
đừng
nhìn
nó mà thương hại”
(Đnl 25:11-12).
Khó
khăn trong đoạn này đã có
từ lâu, các học giả Talmud (các
văn bản cổ về luật và truyền
thống Do Thái) cho rằng đoạn này
có nghĩa là một phụ nữ cần
phải phạt về giá trị của đôi
tay. Các nhà chú giải khác coi đoạn
này không là cách xét xử cần
được đưa ra sau đó, mà
là cách làm cho phụ nữ đó
bỏ tay ra khỏi dương vật. Chắc chắn
rằng hành động nắm lấy dương
vật trong lúc đấu tranh là điều
khiếm nhã (không có ý nói
ngoại lệ), nhưng khó có thể đáng
bị trừng phạt. Ngoài sự khiêm
tốn, việc làm tổn thương dương
vật có thể ảnh hưởng tới
người đàn ông, làm mất khả
năng sinh sản, có thể dẫn tới sự
hổ thẹn và mất tác dụng trong
lĩnh vực Kinh Thánh.
Cuốn
JPS Torah Commentary nhận định: “Ý
nghĩa là: Nếu một người tấn
công người khác theo cách nguy hiểm
(như nắm lấy dương vật, được
coi là chỗ hiểm), người ta có
thể làm tổn thương người tấn
công nếu cần phải cứu nạn nhân
(phải chặt tay người đàn bà);
nếu không thì có thể giết chết
người tấn công (đừng nhìn nó
mà thương hại)”.
Luật
Assyria – Middle Assyrian Laws (A8) – cho biết về
Cận Đông Cổ Đại (Ancient Near East)
thế này: Nếu một phụ nữ đã
nắm dương vật của một đàn
ông khi ẩu đả nhau thì phải cắt
một ngón tay của phụ nữ này.
Vấn
đề dịch thuật bị làm thành
nghiêm trọng bằng cách sử dụng
hai từ khác nhau (yad và kap), chữ
kap có nhiều nghĩa. Nó có thể
có nghĩa là bàn tay, bàn chân,
hông, một nắm, và sự kiểm soát
(Ông Ghít-ôn đáp: “Ôi,
thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở
với chúng tôi, thì sao chúng tôi
đến nông nỗi này? Đâu cả
rồi những kỳ công mà cha ông đã
kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng
phải Đức Chúa đã đưa
chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà
bây giờ Đức Chúa đã bỏ
rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào
tay người Ma-đi-an”
– Tl 6:13).
Vì
các chữ được sử dụng mà
ý nghĩa cũng có thể được
hiểu khác. Ngoài ra, chữ được
dịch là “cắt, chặt” (qss) cũng
được dùng với nghĩa là “lấy
đi”. Giả sử đoạn này xuất
hiện ngay sau vụ việc về quyền của
phụ nữ trong cuộc hôn nhân khác
vì chồng chết (góa phụ được
giới thiệu để khỏi lăng nhăng
với em chồng, và có thể nhổ vào
mặt anh ta nếu anh ta từ chối kết hôn),
có thể hình phạt này áp dụng
vì hôn nhân hơn là việc cắt
bỏ cơ phận. Có thể phụ nữ
đó “thoát” khỏi người
chồng, hoặc cộng đồng.
Điểm
này không phù hợp với cách
giải thích lẩn quẩn về các đoạn
văn bất khả biện luận, nhưng để
nhận biết rằng ý nghĩa của từ
ngữ có thể phức tạp và thay
đổi. Thực sự chúng ta vẫn chưa
biết chữ “selah” có nghĩa gì,
mặc dù chữ này được sử
dụng 74 lần trong Cựu Ước.
2.
CHÚA BIẾT
“Còn
về ngày hay giờ đó thì không
ai biết được, ngay cả các thiên
sứ trên trời hay người Con cũng
không, chỉ có Chúa Cha biết mà
thôi”
(Mc 13:32).
Chúa
Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, sao
lại có điều Ngài không biết?
Đoạn
này không thể tách rời và
không thể hiểu riêng lẻ, nhưng
phải được hiểu với những lời
giải thích khác mà Chúa Giêsu
nói về mối quan hệ giữa Chúa
Cha và Chúa Con. Tương tự với Mt
20:23: “Chén
của Thầy, các người sẽ uống;
còn việc ngồi bên hữu hay bên tả
Thầy thì Thầy không có quyền
cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị
cho ai thì kẻ ấy mới được”.
Nhưng điều đó phải được
thay thế: “Cha
tôi đã giao phó mọi sự cho tôi.
Và không ai biết rõ người Con,
trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết
rõ Chúa Cha, trừ người Con và
kẻ mà người Con muốn mặc khải
cho”
(Mt 11:27); “Chúa
Cha yêu thương người Con và đã
giao mọi sự trong tay Người”
(Ga 3:35).
Các
giáo phụ suy tư nhiều về các
đoạn văn này, Thánh Augustinô
phát triển cách dịch “hình
thức tôi tớ” dựa vào Pl 2:6-7:
“Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút
bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như
người trần thế”.
Trong luận
đề De Trinitate (về Chúa Ba Ngôi),
Thánh Augustinô nói rằng không
có sự mâu thuẫn trong cách Chúa
Con đối với Chúa Cha và Chúa
Cha lớn hơn Chúa Con, vì Chúa Giêsu
là Thiên Chúa thật và là Con
Người thật. Về thần tính, Ngài
đồng đẳng, nhưng về nhân tính
thì không: “Đấng
duy nhất được hiểu về hình
dạng của Thiên Chúa, nhưng khác
khi hiểu về hình dạng người tôi
tớ, không hề có sự lầm lẫn”.
Như vậy, các đoạn Kinh Thánh được
dịch bằng cách hiểu “hai tiếng
vang trong đó, một hài hòa với
hình dạng là chính Thiên Chúa
và đồng bản thể với Chúa
Cha, một hài hòa với hình dạng
là người tôi tớ và kém
hơn Chúa Cha”. Khi chúng ta hiểu được
ý nghĩa đích thực của hai bản
tính nơi Đức Kitô thì nhiều
đoạn Kinh Thánh mới được hiểu
đúng.
Thánh
Augustinô cho biết: “Trong
hình dạng Thiên Chúa, mọi sự
được tạo thành (Ga 1:3); trong hình
dạng tôi tớ, chính Ngài được
tạo thành qua phụ nữ, được
tạo thành theo luật (Gl 4:4). Trong hình
dạng Thiên Chúa, Ngài và Chúa
Cha là một (Ga 10:30); trong hình dạng tôi
tớ, Ngài không đến làm theo ý
Ngài, mà làm theo ý Đấng đã
sai Ngài (Ga 6:38). Trong hình dạng Thiên
Chúa, vì Chúa Cha có sự sống
nơi chính mình, nên Ngài cũng
ban cho Chúa Con có sự sống nơi chính
mình (Ga 5:26); trong hình dạng tôi tớ,
linh hồn Ngài buồn sầu đến chết
được, nếu có thể như vậy,
xin qua khỏi chén này (Mt 26:38). Trong hình
dạng Thiên Chúa, Ngài là Thiên
Chúa thật và là sự sống đời
đời (1 Ga 5:20); trong hình dạng tôi
tớ, Ngài vâng lời cho đến chết,
và chết trên Thập Giá (Pl 2:8). Trong
hình dạng Thiên Chúa, mọi sự
Chúa Cha có thì Ngài cũng có
(Ga 16:15), và Ngài nói rằng mọi sự
của Cha là của Con, của Con là của
Cha (Ga 17:10); trong hình dạng tôi tớ, đạo
lý của Ngài không là của Ngài,
mà của Đấng đã sai Ngài
(Ga 7:16)”.
3.
ÔNG LOT
“Đây
tôi có hai đứa con gái chưa ăn
ở với đàn ông, tôi sẽ đưa
chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì
chúng thì làm, nhưng còn hai người
này, xin anh em đừng làm gì họ,
vì họ đã vào trọ dưới
mái nhà tôi”
(St 19:8).
Việc
ông Lot trao con gái làm vật hy sinh phản
ánh các hy lễ khác của những
người được yêu mến trong Kinh
Thánh – chẳng hạn, ông Áp-ra-ham
sẵn sàng hy sinh bà Sa-ra (hai lần trong St
12:13 và 20:2) trước tính háo sắc
của A-bi-mê-lếch và Pha-ra-ô, và
hiến tế con trai I-sa-ac. Cả hai trường
hợp đều không cần thiết, nhưng
việc đó được thực hiện
để cho thấy tính nghiêm trọng của
tình huống. Các con gái của ông
Lot còn trinh tiết, nhưng đã được
đính hôn, có nghĩa là coi như
đã kết hôn. Ông Lot không thể
có quyền giao các con cho bọn côn đồ,
một dạng hoảng sợ và nghiêm
trọng trong việc đối lập với tính
hiếu khách của ông Lot được
thể hiện trong dân Sô-đôm. Sau đó,
các con gái của ông Lot cho cha uống
rượu say và giao hợp với ông để
có con, mặc dù ông Lot và các
con đều được giải cứu, họ
không được coi là kiểu mẫu
công chính.
Các
thiên thần được ông Lot bảo
vệ. Claus Westermann nhận xét trong tài
liệu phê bình về sách Sáng
Thế: “Mái
nhà trở thành nơi an toàn cho các
vị khách, xâm nhập là tội đáng
sợ với hậu quả khó lường”.
Ông Lot liều mình ra tranh luận với
họ, ra khỏi nhà và đóng cửa
lại. Ông thương lượng với họ
chống lại việc phạm tội giao hợp
đồng giới bằng cách cho họ giao
hợp khác giới như biện pháp thay
thế. Khá rõ ràng, điều này
nói về lòng tôn trọng bị giảm
đối với phụ nữ trong xã hội
ngày xưa, nhưng cũng nhấn mạnh tình
trạng sa đọa của tội kê gian (đồng
tính nam). Hai hành động vi phạm giới
tính không được coi là như
nhau. Không có lý do để chọn lựa
trong tình trạng kỵ hôn (misogyny –
ghét kết hôn), tình trạng vi phạm
tính hiếu khách, hoặc các dạng
giao hợp “lệch lạc” khác vì
nguyên do ông Lot giao con gái và nguyên
nhân kết án của dân đồng
giới. Thế thôi!
Việc
giao con gái như thế là tồi tệ
bằng bất cứ cách hiểu nào về
thần học luân lý. Người ta không
được bày tỏ điều xấu
này với điều xấu khác. Chúng
ta không thể tin rằng ông Lot hiểu đúng
câu chuyện.
4.
TRẺ EM
“Ông
[Ê-li-sa] rời nơi đó lên Bết
Ên. Và khi ông đi lên, thì dọc
đường có những trẻ con từ
thành đi ra, chúng nhạo ông và
nói: ‘Lên đi, ông hói đầu
ơi! Lên đi, ông hói đầu ơi!’.
Ông quay lại, và khi thấy chúng thì
nguyền rủa chúng nhân danh Đức
Chúa. Bấy giờ, có hai con gấu từ
trong rừng đi ra và xé xác bốn
mươi hai đứa trẻ”
(2 V 2:23-24).
Một
lần nữa chúng ta lại có một
đoạn văn phổ thông về những
người chế nhạo, nhưng chẳng có
gì mới lạ. Chẳng hạn, Thánh
Caesarius Arles cho chúng ta biết đây là
đoạn văn ưa thích của những
người theo giáo phái Mani (*) dùng để
chế nhạo Cựu Ước. Ông Ê-li-sa
có vài chục đứa con bị gấu
ăn thịt để chế nhạo cái đầu
hói của ông chăng? Hầu như cách
cách cư xử đó không xứng
với một ngôn sứ của Thiên Chúa
chăng? Chúng ta hãy xem điều gì
xảy ra ở đây.
Lời
nguyền rủa được các nhà chú
giải coi là vô luân hầu như ngay
từ đầu, nên họ tìm kiếm các
lý lẽ sâu sắc hơn. Một trong các
cách hiểu cho rằng đó chỉ là
câu chuyện dạy con cái về lòng
kính trọng, do đó mang tính mô
phạm và không hiểu theo nghĩa đen.
Điều đó muốn cho thấy sức
mạnh của lời tiên tri và phải
tôn trọng các tiên tri.
“Bốn
mươi” có thể là một con số
tượng trưng, chỉ có nghĩa là
“nhiều”. Chúng ta cũng gặp thấy
trong 2 V 10:14 với số người bị Giê-hu
giết. Sách Babylonian Talmud (b. Sota 47a) cho biết
con số là 42, và nói rằng những
đứa trẻ nam bị gấu giết chết
để bù vào những cái chết
này.
Còn
hói đầu thì sao? Ông Lot hói
đầu hay là ông ấy cạo đầu
để thương nhớ ông Ê-li-sa? Nếu
ông ấy cạo, sự chế nhạo không
làm ông tức giận vì chỉ vô
ích, nhưng vì người ta coi thường
một ngôn sứ lớn. Họ chế nhạo
ông hói đầu vì ông bần
tiện như một người đàn ông
hói đầu, hay là họ chế nhạo
vì đó là dấu chỉ tặng
phẩm tiên tri? Nếu vậy thì sự
xúc phạm càng nghiêm trọng hơn.
Sự tôn kính Thiên Chúa bị tổn
thương bởi những đứa trẻ ở
Bết Ên. Chúng ta cũng có thể coi
đó là sự kết án những
người lớn ở Bết Ên mặc dù
lời nguyền rủa đổ trên lũ
trẻ.
5.
DIỆT CHỦNG
Đnl
20:16-17: “Chỉ
có những thành của các dân tộc
này, mà Đức Chúa, Thiên Chúa
của anh em, ban cho anh em làm gia nghiệp, thì
anh em sẽ không để cho một sinh vật
nào được sống. Thật vậy, anh
em sẽ phải loại trừ chúng hoàn
toàn: người Khết và người
E-mô-ri, người Ca-na-an và người
Pơ-rít-di, người Khi-vi và người
Giơ-vút, như Đức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, đã truyền cho anh
em”.
Gs
6:21: “Họ
dùng lưỡi gươm mà thi hành
án tru hiến mọi sự trong thành, từ
đàn ông cho đến đàn bà,
từ người trẻ cho đến người
già, đến cả bò lừa và
chiên cừu”.
1
Sm 15:3: “Giờ
đây, ngươi hãy đi đánh
A-ma-lếch. Các ngươi phải tru hiến
tất cả những gì thuộc về nó.
Ngươi không được tha chết cho
nó. Ngươi phải giết từ đàn
ông đến đàn bà, từ nhi đồng
đến trẻ con đang bú, từ bò
đến chiên dê, từ lạc đà
đến lừa”.
Thế
giới xưa có thể là nơi dã
man. Tiêu diệt kẻ thù là tiêu
chuẩn của chiến tranh. Khi chúng ta thấy
Thiên Chúa truyền lệnh bạo lực
này, chúng ta “bị sốc”. Cớ
sao Tạo Hóa là Đấng yêu thương
và trắc ẩn mà lại ra lệnh giết
chết phụ nữ và trẻ em?
Có
hai cách trả lời dễ dàng. Một
số độc giả kết án Thiên
Chúa là quái vật luân lý,
quay lưng lại với Ngài và mất
niềm tin. Một số khác cố gắng
xoay hướng các đoạn văn, coi đó
là chứng cớ văn hóa bộ lạc
xưa với bề ngoài của sự chuẩn
nhận, chứ không là lời Chúa
đích thực. Không có cách trả
lời nào có thể chấp nhận. Thiên
Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
là MỘT. Không có cách để
đánh trống lảng. Hoặ là bạn
chấp nhận Gia-vê và Chúa Giêsu,
hoặc là không chấp nhận vị nào.
Có
cách để hiểu điều này. Cách
phê bình kinh điển theo tiêu chuẩn
Giáo Hội coi Kinh Thánh là tổng thể
hơn là một chuỗi các câu chuyện
riêng biệt. Đó là sự mặc
khải của Thiên Chúa qua nhiều con
người. Chúng ta không nên ngạc
nhiên khi nguồn gốc mọi sự đều
thể hiện qua thời gian, không gian, và
vấn đề đối với những con
người qua sự khác biệt về văn
hóa và thời gian sẽ giao tiếp đa
dạng (như dạng phức điệu trong âm
nhạc). Công việc của các tín
nhân là lắng nghe tiếng Ngài, nhất
là khi chữ nghĩa tạo sự trái
ngược nhau, như trong các đoạn văn
về chiến tranh tàn khốc.
Chủ
đề tường thuật trong Cựu Ước
là dân Israel quay lưng lại với
Thiên Chúa để theo các tôn giáo
sai trái. Những người tân thời
thích nghĩ rằng tôn giáo nào
cũng tốt, cũng có giá trị (hoặc
không có giá trị), như vậy thì
chẳng đạo nào hơn đạo nào.
Lịch sử cho thấy điều này sai
hoàn toàn, thế nên khi nhìn sâu
vào quá khứ, chúng ta sẽ không
ngạc nhiên khi thấy con người dã
man và các dạng niềm tin. Người
Ca-na-an có cách thực hành ghê sợ,
kể cả việc giết trẻ em, đĩ
điếm, ma thuật, thờ ngẫu tượng,
và liên quan mọi thứ mà Thiên
Chúa cấm người Do Thái làm:
“Anh
em đừng thờ Đức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, như thế, vì tất
cả đều ghê tởm đối với
Đức Chúa; điều Người ghét
thì chúng đã làm cho các thần
của chúng; ngay cả các con trai con gái
của chúng, chúng cũng đã bỏ
vào lửa mà thiêu để tế các
thần của chúng”
(Đnl 12:31).
Một
sự khác biệt về chiến tranh trong Kinh
Thánh là Thiên Chúa cấm người
Do Thái lấy chiến lợi phẩm trong một
số trường hợp. Trong Giô-suê 7, sự
trừng phạt A-khan là một ví dụ
về hình phạt nặng nề khi người
ta bất tuân lệnh. Chiến lợi phẩm
làm cho chiến tranh hấp dẫn, cấm họ
có nghĩa là người ta không được
chiến đấu vì lợi ích tài
chính.
Thật
vậy, dân Israel không triệt tiêu
hết người Ca-na-an. Họ hiếm khi làm
điều Thiên Chúa truyền lệnh, và
họ thường gặp tai họa vì sự
bất tuân như vậy. Thánh Vịnh cho
chúng ta biết điều gì đã
xảy ra: “Họ
lấy tượng thần chúng mà thờ:
đó chính là cạm bẫy họ sa
chân. Họ giết con mình cả trai lẫn
gái, mà hiến quỷ tế thần”
(Tv
106:36-39).
Dân
Chúa có thói quen xấu, và họ
bị kết án. Nhưng Thiên Chúa vẫn
tuyển chọn người Do Thái làm dân
riêng của Ngài, cứu họ thoát
khỏi cảnh nô lệ. Rất khó đọc
những đoạn như thế trong sách Dân
Số, khi Mô-sê ra lệnh hủy diệt
quân Ma-đi-an: “Hãy
giết hết các con trai, cũng như mọi
phụ nữ đã biết đến việc
vợ chồng, đã ăn ở với đàn
ông”
(Ds 31:17). Ông muốn tiêu diệt dân
Ma-đi-an để họ không còn đe
dọa người Do Thái bằng cách
chống lại họ hoặc dụ dỗ họ
theo các thần ngoại bang.
Sau
2000 năm theo Tân Luật của Đức
Kitô, dạng độc ác này không
thể dám nghĩ tới đối với
chúng ta. Tốt lắm. Thế giới vẫn
chuyển động, được Chúa Giêsu
điều khiển, Ngài nói một
giọng điệu như Gia-vê. Ngày nay,
dân Chúa phải sẵn sàng chịu
chết hơn là giết chết người
khác. Chúng ta được sai đi tới
mọi nơi trên thế giới để loan
báo Tin Mừng, thậm chí dù có
phải chết. Chúa Giêsu truyền lệnh:
“Anh
em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế” (Mt
28:19-20). Sự cám dỗ không còn được
chiến đấu bằng gươm giáo mà
bằng trái tim yêu thương.
Thiên
Chúa không thay đổi, chỉ có con
người thay đổi, và lịch sử
là câu chuyện về tiến trình của
Ngài. Thiên Chúa cố gắng che chở
dân Ngài khỏi tình trạng tồi tệ
của các nước xấu xa, chính Ngài
cũng truyền lệnh cho những ai theo Ngài
phải sống khiêm nhường cho đến
chết để loan truyền lời yêu thương
có sức cứu độ của Ngài.
Một
đoạn văn không có ý nghĩa
nếu không có đoạn văn khác.
Bạn phải nhìn vào toàn bộ Kinh
Thánh và coi đó là một sứ
điệp duy nhất do Thiên Chúa gởi
tới. Đó là lý do mà các
tà thuyết như Marcionism, Gnosticism, Manicheanism,
và các tà thuyết khác loại bỏ
Cựu Ước. Mệnh lệnh từ Thiên
Chúa của Israel và của Đức Giêsu
ở Na-da-rét chỉ nói về một câu
chuyện với ý nghĩa duy nhất. Đó
là câu chuyện về loài người
từ vực thẳm tội lỗi thét gào
vang lên tới Vương Quốc của Thiên
Chúa. Chẳng có gì dễ dàng
đâu!
THOMAS
L. MCDONALD
TRẦM
THIÊN THU
(chuyển ngữ từ NCRegister.com)
Đêm
6-7-2018
(*)
Manichaeism [Manichaeanism, Mani giáo]: hệ thống
tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes
(khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư
hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung
đột nguyên thủy giữa ánh sáng
và bóng tối, kết hợp với các
yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo
(Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái
hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu
tố ngoại giáo khác. Thuyết này
bị chống đối từ phía Hoàng
đế La mã, các triết gia tân
Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu
chính thống.
|