Đừng
để lỡ cơ hội gặp Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày
lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội
đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9
giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội
đường cầu nguyện. Đọc sách luật và
thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng
thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư
tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác
thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét
dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm.
Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp
dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ
trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ
cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của
nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha
trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ
của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi
người phải sống thương yêu nhau như anh
em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với
nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao
ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm
được nhiều phép lạ như thế nghĩa là
gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép
của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về
nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em
họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà
con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ
gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp
nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối
tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ
mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang
thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp
giường ghép tủ, đục đẽo cầy
bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã
hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm
được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi
lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi
nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại
như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ
không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin
Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám
nghĩ rằng mình là người đồng hương
với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai
đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu
như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư
chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ
quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa
từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền
lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài
cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển
phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện
Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào.
Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước
mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài
cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí
quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép
để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm
bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ
chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ
quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi
chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ
chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết
Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người,
đã xuống thế làm người sống với
họ như anh em, như bạn bè, để cứu
họ khỏi chết đời đời.
Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh,
biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với
đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến
nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con
người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn
nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói:
Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn
người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính
hiển vi”.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ
nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai
là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen
thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không
được quê hương mình chấp nhận”.
Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không
tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng
đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo
lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng
thấy được những điều sâu lắng bên
trong, những cái tinh thần cao thượng, những
mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích
rất lớn cho con người. Chính những chất màu
mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái,
hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi
nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật.
Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như
mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng,
sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên
phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính
những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong
con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt,
ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức
thăng tiến con người hơn chân tay, mắt
mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ
bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay.
Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói
của một người dựa trên bằng cấp,
sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa
vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ
ai có chức có quyền, có địa vị, có của
cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng
họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp
cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng
họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý
sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường
được người đời ưu đãi, còn ngôn
sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc
6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng
của cải, tiền bạc, chức quyền,
địa vị chứ không phải là người coi
trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một
điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế,
học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là
sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói
ra một đứa trẻ, một người nghèo thì
cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến
thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến
thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn
của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức
giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà
tặng thần linh đi đến nơi khác.Những
người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ
cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con
Thiên Chúa làm một thường dân đến sống
giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết
đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia
đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ
coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất
hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn
năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép
lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các
làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở
lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho
họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao
nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không
tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt
không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta
bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm
ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã,
khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những
nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta
bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo
để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở
ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua
các tai nạn; qua lời khuyên của những người
thân; qua lời phê phán của những người thù ghét
ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta
không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng.
Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ
bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao
giờ trở lại. Như thế thì thật nguy
hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta
phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh
mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn
đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong
anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho
mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương.
Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy
để nghe được tiếng nói của Chúa, dù
tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng
mình; hiểu được những dấu chỉ của
Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ
thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù
khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những
đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho
con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận
Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
Lạy Chúa Giêsu, xin
mở con mắt đức tin cho mọi người
được thấy những sự khôn ngoan, quyền
phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt
động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả
trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể
thấy được, để họ biết ca
ngợi Chúa muôn đời. Amen.
|