Suy niệm và chú giải của
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Sức
phá hoại của Xa-tan nơi hai ông bà nguyên tổ vì
bất phục huấn lệnh của Thiên Chúa
được tiếp tục nơi giai cấp lãnh
đạo Do thái vì họ vu khống Đức Giêsu dùng
tướng quỷ mà trừ quỷ. Nhưng lời hứa cứu
độ của Thiên Chúa: “miêu duệ người nữ
sẽ đạp nát đầu mi”, sẽ được
Đức Giêsu thực hiện khi Ngài khẳng định
rằng nước của Sa-tan sẽ sụp đỗ và
thiết lập gia đình Thiên Chúa qua việc lắng nghe
và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
St 3, 9-15
Sách Sáng
Thế mô tả những tác hại của việc hai ông bà
nguyên tổ không vâng lời Thiên Chúa và đồng thời
lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
2Cr 4,13 – 5,1
Được
cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ,
thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân cũng với các tín
hữu thân yêu của ngài sẽ được sống
với Chúa.
Mc 3, 20-35
Đức
Giêsu thực hiện lời hứa của Thiên Chúa bằng
cách khẳng định nước của Xa-tan sẽ
sụp đổ và thiết lập gia đình Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (St 3, 9-19)
Sách Sáng
Thế mô tả những tác hại của tội và
lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
1. Những tác hại của
tội (3: 9-13):
Tác
giả mô tả cách tinh tế tội gây tác hại cho nhân
loại qua hai ông bà nguyên tổ như thế nào.
A. Tội phá vỡ mối giao hảo
của con người với Đấng Tạo Hóa (3:
9-11):
Thuở ban
đầu, vào lúc gió chiều hiu hiu thổi, Thiên Chúa
thường đến dạo chơi trong vườn
với hai ông bà và trò chuyện thân mật với hai ông bà.
Nhưng kể từ nay khi nghe tiếng bước chân
của Thiên Chúa, hai ông bà, thay vì mừng rỡ chạy ra
nghênh đón Người, lại ẩn mình vào giữa lùm
cây trong vườn, vì sợ giáp mặt với Thiên Chúa. Hình ảnh hai ông bà trốn vào lùm cây diễn
tả phản ứng quen thuộc của những kẻ
phạm tội; tội lỗi khiến con người
tránh xa Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã
khiến cho kẻ phạm tội sợ phải diện
đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh
vị Thiên Chúa tốt lành của mình. Tội
lỗi phá vỡ mối thân tình ban đầu giữa loài
thụ tạo với Đấng Tạo Hóa của mình.
B. Tội làm rạn nứt tình chồng
nghĩa vợ (3: 12-13)
Thuở ban
đầu, khi mới gặp người nữ Thiên Chúa
giới thiệu cho mình, con người đã thốt lên:
“Đây là xương bởi xương tôi, thịt
bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây
người chồng đổ hết trách nhiệm cho
vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với
con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (3: 12). Còn
người nữ cũng thoái thác trách nhiệm của mình
bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn
đã lừa dối con, nên con ăn” (3: 13). Lời của
người nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình
đã để cho Con Rắn xảo trá lừa dối
đến mức hiểu sai ý định tốt lành
của Thiên Chúa. Tội đã làm rạn nứt
mối tình nghĩa keo sơn bền chặt “nên một
xương một thịt” giữa chồng và vợ,
mỗi người tìm cách chối quanh co những lỗi
lầm của mình, không ai dám nhận phần trách nhiệm
của mình.
2. Lời hứa cứu
độ của Thiên Chúa (3: 14-15)
Thiên Chúa phán xử con
rắn qua hai câu: câu thứ nhất là án
phạt dành cho con rắn, câu thứ hai báo trước
sự chiến thắng của loài người trên con
rắn, tên cám dỗ.
A- Thiên Chúa luận tội con rắn (3: 14):
Trước hết,
Thiên Chúa luận tội con rắn, kẻ cám dỗ:
“Mi
đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền
rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã
thú.
Mi phải bò bằng
bụng, phải ăn bụi
đất mọi ngày trong đời mi” (3: 14).
Lời luận
tội này mang tính tầm nguyên về loài rắn, nhằm
để trả lời cho những câu hỏi như:
tại sao con rắn lại bò sát đất, lại ăn đất? Tại sao nó
khác biệt với các loài khác? Tại sao
lại có mối thù giữa loài người và loài rắn?
Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một
lời chứng nhận: con rắn không có chân nên phải
“bò bằng bụng”, nhưng tác giả đã nối
kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh
điển về sự thất bại, bị hạ
nhục và khinh dể: “Phải ăn bụi đất
mọi ngày trong đời mi” (x. Is 49: 23; Mk 7: 17; Tv 72: 9; v.v.). Ở đây, tác giả một
lần nữa phản bác việc phụng thờ thần
rắn để cầu xin cho được phong nhiêu và
phồn sinh thường thấy tại Lưỡng Hà
Địa, Ai-cập, Pa-lét-tin… Trong các đền thờ,
thần rắn được tạc tượng
giống như con rồng có chân đứng thẳng để
nhận những hành vi thờ bái của các tín hữu;
thần rắn cũng được cho rằng có thể
ăn lễ vật do các tín đồ sốt sáng dâng lên,
nhưng từ nay “phải bò bằng bụng, phải
ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”.
B- Thiên Chúa loan báo ơn cứu
độ (3: 15):
Tiếp đó, Thiên
Chúa loan báo ơn cứu độ qua việc dòng giống
người nữ sẽ chiến thắng trên dòng
giống con rắn:
“Ta sẽ gây mối
thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống
người ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào
đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (3: 15).
Lời tiên báo này có
thể được giải thích cách rộng lớn
hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua kiểu nói:
“dòng giống của người đàn bà”, và tất
cả những quyền lực của sự ác qua kiểu
nói: “dòng giống của con rắn”. Qua lời tiên báo này,
Thiên Chúa hứa rằng Người sẽ can thiệp
để phục hồi nguyên trạng cho con người.
Lời hứa này mở ra cho nhân loại một niềm hy
vọng là một ngày kia nhân loại
sẽ chiến thắng trên những quyền lực
của Ác Thần.
Tuy nhiên, bản
dịch Hy-ngữ (bản Bảy Mươi) đặt
chủ từ ở số ít giống đực: “Chính
người con trai đó sẽ đạp dẹp
đầu người”. Theo cách hiểu của bản
dịch này, lịch sử sẽ là một cuộc
chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các
quyền lực của sự dữ; nhưng nếu
cuộc chiến thắng sau cùng được đảm
bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm
chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến
thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu
Thế. Còn các Giáo Phụ thì đọc thấy lời
hứa này là lời tiên báo theo đó ở giữa lòng nhân
loại sẽ sinh hạ một người nữ, bà này
sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ,
người đàn bà đó là Mẹ của Đấng
Cứu Thế; vì thế bản dịch La-ngữ (bản
Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt chủ từ
ở số ít giống cái: “Chính người đàn bà
đó sẽ đạp dập đầu ngươi”,
để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Maria.
Dù
thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không
loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau. Người Đàn Bà
chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ
Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý
rằng khi tạc tượng vẽ hình về Đức
Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn,
các nghệ sĩ luôn luôn trình bày Hài Nhi Giêsu trong vòng tay
của Mẹ Mình. Chúng ta biết rằng sách Khải
Huyền của thánh Gioan âm vang bản văn Sáng Thế này
trong một thị kiến về Người Phụ
Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn
xưa”, nhưng trong đó Đức Ma-ri-a đã không
được trực tiếp chỉ ra (Kh 12). Vì thế,
lời tiên báo này được truyền thống Ki-tô giáo
giải thích là “tiền tin mừng”, nghĩa là tin mừng
“đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu
độ.
BÀI ĐỌC II (2Cr 4: 13-5: 1)
Thánh nhân vạch rõ rằng đau
khổ của Đức Giêsu mặc khải tình yêu Thiên
Chúa và ban sự sống như thế nào, thì những
đau khổ của thánh Phao-lô nẩy sinh trong tình yêu mà
thánh nhân dành cho các tín hữu Cô-rin-tô cũng như vậy. Được cuộc Phục Sinh của
Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh
nhân sẽ được sống lại “với Chúa” (4: 14; x. 1Tx 4: 14, 17). Tuy nhiên, điểm
nhấn ở đây được đặt trên “cùng
với anh em” (4: 14). Điều nhấn này giúp chúng ta
thấu hiểu tình yêu thánh nhân dành cho những người
mà thánh nhân chia sẻ Tin Mừng và cũng giúp cho chúng ta
thấu hiểu lòng nhiệt thành thánh nhân dâng hiến cho
sứ mạng của mình ngỏ hầu Tin Mừng có
thể đạt đến nhiều người
chừng nào có thể.
TIN MỪNG (Mc 3:
20-35)
Bối
cảnh không gian của phân đoạn này chính là
Đức Giêsu đang ở trong một ngôi nhà có đám
đông vây quanh. Còn
bối cảnh thời gian thì rộng lớn hơn
bối cảnh không gian: thân nhân của Người từ
làng Na-da-rét đến Ca-phác-na-um để bắt Ngài
về vì nghĩ rằng “Người đã mất trí” (3: 21), trong khi các kinh sư Do thái xuyên tạc
hành động của Ngài và vu khống Ngài dùng
tướng quỷ mà trừ quỷ.
Bản văn này
được cấu trúc theo lối
hành văn “đối xứng đồng tâm nghịch
đảo” như sau:
A-Thân
nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 20-21).
B-Các kinh sư vu
cáo Đức Giêsu (3: 22).
C-Đức
Giêsu tự biện hộ (3: 23-27).
B’-Đức Giêsu
phê phán các kinh sư (3: 28-30).
A’-Đức
Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35).
A-Thân nhân cáo giác Đức
Giêsu (3: 19b-21):
20. “Người
trở về nhà và đám đông lại kéo đến”:
Giới thiệu hoàn cảnh của Đức Giêsu vào lúc
đó. Đây chắc là nhà của thánh Phê-rô.
21. Bà con họ hàng
của Đức Giêsu đến để bắt
Người về, vì họ nghĩ rằng Người
đã mất trí. Khi xử sự như
thế, họ chỉ muốn gìn giữ thể diện
danh giá của gia tộc và bảo vệ mạng sống
cho Đức Giêsu. Nhưng điều
ấy cho thấy rằng các thân nhân của Người
tỏ ra không hiểu gì về sứ mạng của
Người và không nhận ra Người có một sứ
mạng thần linh.
B-Các kinh sư vu cáo
Đức Giêsu (3: 22):
Các kinh sư từ
Giê-ru-sa-lem đến kết án Chúa Giêsu
hai tội: “Người bị quỷ vương
Bê-en-dê-bun ám” và “Người dựa thế quỷ
vương mà trừ quỷ”. Trong lời
biện hộ, Đức Giêsu sẽ trả lời cho
họ lời kết tội thứ hai trước (3: 23-26), rồi đến
lời kết tội thứ nhất sau (3: 27).
C-Đức Giêsu tự
biện hộ (3: 23-27):
23. “Xa-tan làm sao
trừ Xa-tan được?”: Chúa Giêsu trả lời cho
lời buộc tội thứ hai của các các kinh sư,
những người này không thể nào bác bỏ những
việc trừ quỷ của Đức Giêsu, vì thế
họ giải thích rằng Người đã dùng
tướng quỷ mà trừ quỷ. Qua ba câu
24-26, Đức Giêsu vạch rõ cho thấy lời giải
thích này thật là phi lý.
24-26. Điểm
cơ bản được minh họa theo
ba cách, mỗi cách theo cùng một cấu trúc. Nếu
một nước, một nhà hay Xa-tan chia rẽ, thì nó không
thể đứng vững được. Nếu câu
24 và câu 25: một nước, một nhà là dụ ngôn, thì
câu 26 lại là lời trả lời trực tiếp:
nếu Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ
quỷ hóa ra Xa-tan sẽ đặt các thuộc hạ
của mình chống lại nhau, vì thế, tự tiêu
diệt chính mình và vương quốc của mình. Câu kết luận không cần phải nói ra
Đức Giêsu không thể nào thuộc về vương
quốc của Xa-tan được, nhưng là đối
thủ đáng gờm của Xa-tan.
27. “Không ai vào nhà
một người mạnh mà có thể cướp của
được, nếu không trói người mạnh ấy
trước đã, rồi mới cướp sạch nhà
nó”: Qua câu 27 này, Đức Giêsu trả lời cho lời
buộc tội thứ nhất của các kinh sư khi
họ tố cáo Người bị quỷ ám. Nếu Đức Giêsu bị quỷ ám thì
Người phải dưới quyền thống trị
của Xa-tan. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu là
“người mạnh hơn Xa-tan”, Người đã
đột nhập vào nhà của nó, đã trói nó và
“cướp sách sạch nhà nó”, tức là những
người được giải thoát khỏi bệnh
tật và ma quỷ. Chính cuộc giải phóng
này loan báo cuộc trất quyền của Xa-tan và Triều
Đại Thiên Chúa ngự đến.
B’-Đức Giêsu phê phán các
kinh sư (3: 28-30):
28. “Tôi bảo
thật anh em”: Lời dẫn nhập long trọng và
đầy xác quyết này có giá trị như một
lời cam đoan.
- “Mọi tội
của con cái loài người, kể cả tội nói
phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều
mấy đi nữa, thì cũng còn được tha”: “Tội
nói phạm thượng” theo nghĩa hẹp là nói những
lời xúc phạm đến Thiên Chúa, đến Danh Thiên
Chúa (Mc 2: 7; 14: 64; Ga 10: 33-36); theo nghĩa rộng là lời
nói xúc phạm đến một đặc quyền
thần linh nào đó (Cv 6: 11), một tổ chức thánh (Ed
35: 12; 1Mcb 7: 38); theo văn mạch ở đây là tội nói
xúc phạm đến Chúa Giêsu, vì Người là
Đấng được Thiên Chúa sai đến và có
quyền năng của Thiên Chúa (15: 29tt; Lc 22: 64-65; 23: 30). Tất cả mọi tội xúc phạm
đến Đức Giêsu đều được tha.
29. “Nhưng ai
phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào
được tha, mà còn mắc tội muôn đời”:
Bản liệt kê các thứ tội mà loài người
phạm đều có thể được tha nhằm làm
nổi bật tội phạm đến Thánh Thành chẳng
đời nào được tha. Vậy
tội phạm đến Thánh Thần là tội gì?
Chúa Giêsu đang trả lời cho các kinh sư Do thái, theo họ Thần Khí không chỉ mặc
khải sự thật của Thiên Chúa cho loài người
nhưng còn khai lòng mở trí cho loài người hiểu
biết sự thật ấy. Theo văn
mạch, Thánh Mác-cô đã trình bày ngay từ lúc khởi
đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã
được Chúa Thánh Thần ở cùng và hướng
dẫn Người trên con đường thi hành sứ
mạng. Như vậy, Thánh Thần hoạt
động trong những việc chữa lành và trừ
quỷ nơi Đức Giêsu để mặc khải cho
loài người sự thật của Đức Giêsu và
giúp con người hiểu biết sự thật ấy.
Nhưng các kinh sư chẳng những không mở rộng
lòng mình để tiếp nhận sự thật mà Thánh
Thần mặc khải mà còn cố tình xuyên tạc sự
thật ấy bằng cách gán những hành động
của Thánh Thần ở nơi Đức Giêsu cho
quyền lực của quỷ. Thật ra, “tội nói
phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào
được tha thứ”, không có nghĩa rằng Thánh Thần
không tha thứ, mà chính đương sự tự ý khép kín
lòng mình trước sự thật và nhất quyết
sống trong sự gian dối.
30. “Đó là vì họ
đã nói ông ấy bị thần ô uế ám”: Những ai cho
rằng những gì Đức Giêsu làm đều ở
dưới quyền lực của ma quỷ, chịu
sự tác động của ma quỷ, những
người ấy không thể đón nhận ánh sáng
của ân sủng, không muốn đón nhận ơn tha
thứ mà Thánh Thần ban cho hết mọi người. Câu này mặc nhiên khẳng định rằng Chúa
Thánh Thần chứ không Xa-tan là nguồn quyền năng
của Đức Giêsu.
A’-Đức Giêsu phê phán thân
nhân của Ngài (3: 31-35):
31. “Mẹ và anh em
Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài cho
gọi Người ra”: Nhóm người nầy tương
tự như (hay ít ra một phần) “thân nhân của Người”
được kể ra ở 3: 21. Từ “anh em” trong
tiếng Híp-ri có một phạm vi
ngữ nghĩa rất rộng như là anh em ruột, anh em
họ, và cả bà con xa gần. Trong câu chuyện
trước đó (3: 20-21), tác giả đã kể rằng
khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh
cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn
uống, “thân nhân của Người liền đi bắt
Người vì họ nói rằng Người mất trí” (Mc
3: 21). Chuyến đi đó họ “không
bắt” (nghĩa là “không ngăn cản”) Chúa Giêsu
được. Có lẽ vì thế mà bây
giờ, họ dẫn thêm Đức Ma-ri-a. Câu chuyện này cho thấy Đức Mẹ
chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa
Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ
và suy đi nghĩ lại trong lòng về những việc
lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng,
dưới chân Thập Giá, Mẹ mới hiểu hết và
còn kết hợp sự đau khổ của mình với
sự đau khổ của Chúa Giêsu. Quả
thật, Công Đồng Va-ti-can đã nói về cuộc hành
trình đức tin của Đức Ma-ri-a.
32. “Đám đông
đang ngồi chung quanh Người”:
Đám đông được mô tả như những môn
đệ vây quanh Người, chăm chú lắng nghe
Lời Người.
- “Có kẻ nói với
Người rằng: ‘Thưa Thầy, có mẹ và anh em
chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”: Theo cách
mô tả của thánh Mác-cô, những thân nhân của
Đức Giêsu đang đứng ở bên ngoài, còn đám
đông thì đang ngồi chăm chú lắng nghe
Người ở bên trong. Như vậy, với hai cặp
không gian đối nghịch nhau: “ở bên ngoài” và “ở
bên trong”, thánh Mác-cô muốn diễn tả chủ đề
chính của phân đoạn này, theo đó những kẻ
đang ngồi lắng nghe lời Người ở bên
trong thì thân thiết và gần gũi với Người còn
hơn những thân nhân của Người đang
đứng ở bên ngoài.
33. “Ai là mẹ tôi?, ai
là anh em tôi?”: Khi nghe tin mẹ và anh em từ làng quê Na-da-rét
đến ở bên ngoài, chẳng những Đức Giêsu
không ngừng công việc rao giảng, nhưng Người
còn nêu lên một câu hỏi lạ lùng này.
34. “Rồi
Người rảo mắt nhìn những kẻ chung quanh”: Đây là cách thức thánh Mác-cô
nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo huấn mà
Chúa Giêsu đưa ra sau đó.
- “Đây là mẹ tôi,
đây là anh em tôi”: Đức Giêsu đang chỉ những
người ở bên trong, họ mới thật sự là
mẹ và anh chị em của Người.
35. “Ai thi hành ý
muốn của Thiên Chúa”: Lời nói trọng tâm nầy
chứa đựng ít nhất một ghi nhận tiêu
cực về gia đình huyết thống của
Đức Giêsu. Những thân nhân huyết thống “ở
bên ngoài”, những người đang đến đó không
phải để nghe Lời Người nhưng
để ngăn cản Người thi hành sứ vụ
của Người vì cho rằng “Người đã
mất trí” (3: 21), đối lập với những thân
nhân đức tin “ở bên trong”, tức là tất cả
những ai lắng nghe Lời Người và thi hành ý
muốn của Thiên Chúa. Thánh Mác-cô muốn làm nổi
bật hai mẫu gia đình: gia đình huyết thống
thì “ở bên ngoài”, còn gia đình đức tin thì “ở bên
trong”.
Trong Cựu Uớc,
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển
vũ trụ (Hc 43: 16; Tv 29: 5), vì thế
làm theo ý muốn của Thiên Chúa là điều con
người phải ước muốn ưu tiên hàng
đầu: “Con thích làm theo thánh ý và ấp ủ Luật Chúa
trong lòng” (Tv 40: 9). Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần
nhấn mạnh đến việc lắng nghe Lời
Người và đem ra thực hành, chẳng hạn như
“Ai đến với Thầy, và nghe những lời
Thầy dạy mà đem ra thực hành…người ấy
ví được như một người khi xây nhà,
đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên
đá. Nước lũ có dâng lên, dòng sông có ùa
vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi” (Lc 6: 47-48).
-
“Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Trong một xã hội mà gia đình
đóng một vai trò quan trọng đặc biệt, thì ý
tưởng về một gia đình đức tin có tác
dụng làm tương đối hóa những mối liên
hệ huyết thống, đây mới thực sự là gia
đình của Đức Giêsu không căn cứ trên
huyết thống hay chủng tộc nhưng trên việc
thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tác giả không nhằm phê phán
Đức Ma-ri-a cũng như anh chị em của
Người, nhưng có chủ ý cho thấy các tín hữu,
tức là những người môn đệ ở cùng nhà và
chia sẻ đời sống với Đức Giêsu, không
chỉ như những người “ở với
Người và để Người sai đi” (x. 3: 14),
nhưng còn như những thành viên của cùng một gia
đình, gia đình của Thiên Chúa, Cha của Đức
Giêsu Ki-tô. Chúa Giêsu cho hiểu rằng những người
đang quây quần chung quanh Người
được nối kết với Người một
cách sống động và thực sự: Người
thuộc về họ và họ thuộc về Người.
Tuy nhiên, sợi dây liên kết này không căn cứ trên
căn bản huyết thống, những trên mối quan
hệ của họ với Thiên Chúa. Họ là
những người liên kết với Đức Giêsu cách
mật thiết nhất, bởi vì họ thi hành ý muốn
của Thiên Chúa.
Qua những lời
này, Chúa Giêsu cho hiểu rằng trong kế hoạch của
Thiên Chúa, “sống theo ý muốn của
Thiên Chúa” mới thật sự trở nên gia đình của
Người chứ không là mối liên hệ huyết
thống. Như vậy, gián tiếp Người cho hiểu
rằng Đức Ma-ri-a có một vị trí cao quý tột
bậc không phải vì là “thân mẫu của Người”
cho bằng đã “sống theo ý muốn
của Thiên Chúa”. Những thân nhân huyết thống của
Đức Giêsu cũng không bị loại khỏi mối
hiệp thông với Người, nếu họ sẵn sàng
thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Đây quả là
một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản
mà thánh Mác-cô muốn trình bày cho các Ki-tô hữu
đương thời về Giáo Hội. Cuộc
bách hại của người Rô-ma đã đẩy
nhiều gia đình đến những cuộc phân ly
đau đớn. Những ai trở
lại đạo thường bị buộc phải
chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng
đồng Ki-tô hữu. Thánh Mác-cô chứng tỏ cho
họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị
buộc phải đoạn tuyệt với thân nhân của
Người: vì thế các Ki-tô hữu không thể đòi cho
mình được đặc quyền hơn Người.
Như thế, trên con đường rao giảng của
Chúa Giêsu, thánh Mác-cô đưa ra hai loại tương giao giữa
Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của
Người: một số khước từ và một
số khác đón nhận Người. “Bản
thân là một người Ki-tô hữu, tôi đã thuộc
về Đức Ki-tô. Biết và thi hành
ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em
của Người. Vâng, Chúa đã nói
với những kẻ ngồi xung quanh Người như
thế. Hôm nay Chúa cũng tha thiết nói
với tôi, với những người xung quanh tôi như
vậy, từ những người trí thức đến
những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ
đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời
sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa
Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi
người. Như thế đó, ta
vừa là mẹ vừa là anh chị em của
Người.” (“Epphata”).
|