Sự nhận định của người nhà Chúa
Giêsu - Suy niệm của William
Barclay
(Trích trong ‘Chú Giải
Tin Mừng Máccô’)
I. Sự nhận định của
người nhà Chúa Giêsu: 3,20-21
Thỉnh
thoảng có người đưa ra một nhận
định mà chúng ta không thể giải thích gì khác hơn
là bảo đó là sản phẩm của một kinh
nghiệm cay đắng.
Khi kể ra những gì một người phải gặp
nếu muốn theo Ngài, Chúa Giêsu đã nói “Người ta
sẽ có kẻ thù nghịch là người nhà của mình”
(mt 10,36). Chính người
nhà Chúa Giêsu đã kết luận Ngài bị mất trí, và
đã đến lúc họ phải bắt Ngài đưa
về nhà. Chúng ta hãy thử xem
điều gì khiến họ cảm thấy như
vậy.
1/ Chúa
Giêsu đã bỏ nhà ra đi, bỏ luôn nghề thợ
mộc Ngài đã từng làm ở Nazaret. Chắc nghề ấy vốn phát đạt, ít
nhất cũng giúp Ngài sinh nhai được. Thình
lình, Ngài bỏ hết và ra đi làm một nhà truyền
giáo, lang thang đó đây. Chắc họ
nghĩ rằng chẳng ai tỉnh trí mà lại chịu
bỏ việc làm ăn lợi lộc để trở
thành một kẻ lang thang không chỗ
gối đầu như vậy.
2/ Chúa
Giêsu đang tiến tới chỗ phải đụng
đầu với các lãnh tụ chính thống giáo thời
đó. Ở đời, có nhiều kẻ có
thể gây thiệt hại lớn lao cho
người khác, có kẻ mà tay chân bộ hạ của
họ cũng đáng cho người ta phải coi
chừng, có kẻ mà chống lại họ là vô cùng nguy
hiểm. Người nhà của Chúa Giêsu đã
nghĩ, một người tỉnh trí sẽ chẳng bao
giờ dám chống lại những kẻ quyền thế,
vì phải biết rằng đụng chạm với chúng
chỉ rước họa vào thân. Chưa hề có ai
gây chuyện với các Kinh sư và Pharisêu, với các
thủ lãnh tôn giáo mà hy vọng có thể thoát khỏi tay họ.
3/ Chúa Giêsu triệu tập
một nhóm người bé nhỏ cho riêng Ngài, một nhóm
người khá kỳ dị. Có mấy người là ngư dân,
một người thâu thuế bỏ việc, một nhà
ái quốc cuồng tín. Họ là hạng
người mà không ai có chút tham vọng muốn đặc
biệt quen biết. Họ là hạng
người chẳng ích lợi gì cho ai muốn làm nên
sự nghiệp. Chắc họ nghĩ
chẳng ai tỉnh trí mà đi kết bạn với
những kẻ như thế. Dứt khoát họ không
phải là hạng người mà một người
thận trọng chịu hòa mình chung
sống.
Bằng các việc
làm của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch rõ ràng cả ba nguyên tắc
mà loài người có khuynh hướng áp dụng để
tổ chức đời sống mình, đều chẳng
có ý nghĩa đối với Ngài.
1/ Ngài
đã vứt đi nếp sống đảm bảo. Điều mà phần đông người thế
gian cần có là một đời sống bình yên, ổn
định. Họ ao ước được
một việc làm, một địa vị an
toàn, ổn định, ít gây xáo trộn về vật
chất và tài chánh.
2/ Ngài đã vứt bỏ
sự an toàn. Phần đông người ta có khuynh hướng
muốn được sống an toàn,
họ lo được an thân hơn lo cho phẩm cách
đạo đức, cho việc làm phải hay quấy.
Làm một việc có nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân
là điều do bản năng người ta luôn luôn né
tránh.
3/ Ngài hoàn
toàn thờ ơ đối với lời phê phán, khen chê
của xã hội. Ngài đã chứng tỏ
là chẳng bận tâm gì đến những gì người
ta nói về Ngài. Thật vậy, H.G. Wells
đã nói: “Với nhiều người, tiếng nói của
người láng giềng nghe to hơn cả tiếng Thiên
Chúa. Người ta sẽ nói gì? Là một trong những câu hỏi đầu tiên mà
chúng ta vẫn thường có thói quen đặt ra”.
Điều khiến
cho người nhà và bạn bè của Chúa Giêsu lo sợ là
những nguy cơ Ngài đã liều lĩnh chuốc
lấy cho mình, mà theo ý họ, chẳng có
người tỉnh trí nào làm vậy cả.
Lúc John
Bunyan bị bỏ tù, ông đã rất lo sợ. Ông nghĩ “Kết thúc
của việc tôi bị bỏ tù có thể là giá treo
cổ, đó là điều tôi có thể nói”. Ông không
thích ý nghĩ mình sẽ phải bị treo cổ, rồi
một ngày kia, ông cảm thấy xấu hổ vì đã
nghĩ như vậy “Hình như tôi xấu hổ vì
phải chết với gương mặt tái xanh và hai
đầu gối run rẩy chỉ vì một lý do như
vậy”. Nhưng cuối cùng, ông đã đến
được câu kết luận “khi tưởng
tượng mình đang leo thang
để lên giá treo cổ, lúc đó tôi nghĩ: tôi phải
tiến bước và đánh liều phần số
đời đời của tôi với Chúa Cứu Thế,
cho dù ở đây tôi có được thoải mái hay không.
Tôi nghĩ, nếu không có Chúa can thiệp, tôi cũng cứ
nhắm mắt nhảy từ chiếc thang ấy vào cõi
đời đời, dù có thể bơi lội hay chìm
lỉm, dù thiên đàng hay hỏa ngục; Lạy Chúa Giêsu
nếu Ngài có thể hứng bắt lấy con, xin hãy làm
công việc của Ngài, bằng không, con cũng vì danh Ngài mà
liều mạng sống vậy”. Đó cũng chính là
điều mà Chúa Giêsu đã sẵn sàng làm, tôi sẽ vì danh
Ngài mà liều mạng, chứ không phải muốn
được sống yên thân, an toàn, phải là khẩu
hiệu của mỗi Kitô hữu và là nguồn mạch cho
sinh hoạt Kitô hữu.
II. Liên minh hay chinh phục: 3,22-27
Các
chức sắc chính thống giáo chẳng còn chút gì
để nghi ngờ quyền phép đuổi quỷ
của Chúa Giêsu. Họ không cần nghi ngờ vì bên Phương
Đông từ thời ấy mãi cho đến ngày nay,
đuổi quỷ vốn là một hiện tượng
thông thường. Điều họ nói
là, sở dĩ Chúa Giêsu có quyền đuổi quỷ vì
Ngài liên minh với chúa quỷ, nghĩa là “Ngài cậy con
quỷ lớn để đuổi lũ quỷ nhỏ”.
Người ta vẫn luôn luôn tin vào phù phép và đó chính là
điều họ nói về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu
chẳng phải khó khăn gì để đả phá
luận cứ đó. Việc đuổi quỷ luôn luôn là kêu gọi
một thế lực mạnh hơn, giúp đuổi
một con quỷ yếu hơn. Vì
thế Chúa Giêsu bảo “Cứ nghĩ mà xem, nếu một
nước mà nội bộ chia rẽ thì nước
ấy không thể tồn tại, trong một nhà mà có cãi
lẫy, tranh chấp, thì nhà ấy cũng sẽ không còn”.
Nếu thật quỷ Satan đang đánh nhau với các
quỷ sứ nó thì nó sẽ không còn là một thế
lực có ảnh hưởng nữa, vì nội chiến
đã bùng nổ trong nước của nó rồi! Chúa Giêsu
phán “Hay nói cách khác, giả sử các bạn muốn đánh
cướp nhà một người rất khỏe, các
bạn chẳng có hy vọng gì làm được việc
đó nếu chưa tóm được người rất
khỏe đó. Sau khi trói được
người ấy, mới có thể cướp của
trong nhà người ấy được”. Việc các quỷ bị thua không chứng tỏ
Chúa Giêsu đã liên minh với Satan nhưng là đồn
lũy của Satan đã sụp đổ. Một con
người mạnh hơn đã đến và cuộc
đàn áp Satan đã bắt đầu. Ở
đây có hai điều nổi bật.
1/ Chúa
Giêsu thừa nhận đời sống là một cuộc
chiến đấu, giữa hai thế lực thiện và
ác. Chúa Giêsu không phí thì giờ
để suy luận về những vấn đề không
có lời giải đáp. Ngài không
dừng lại để biên luận điều ác ở
đâu ra, nhưng Ngài đã đối phó hữu hiệu
nhất với nó. Có một điều
hết sức kỳ dị là chúng ta thường phí
rất nhiều thì giờ tụ tập nhau lại
để tranh cãi về nguồn gốc của
điều ác, nhưng chúng ta lại dành quá ít thì giờ
để tìm những phương pháp thực tiễn
nhằm ngăn chặn hoặc đối phó với
điều ác. Có người nói “Giả
sử có người vừa thức giấc bỗng
thấy ngôi nhà mình đang bốc cháy, chắc chắn
người ấy sẽ không ngồi vào ghế bành
chăm chú đọc một bài thảo luận nhan
đề “Nguyên nhân những vụ phát hỏa tại
tư gia”. Nhưng người ấy
phải lập tức làm tất cả những gì có
thể làm được để dập tắt ngọn
lửa. Chúa Giêsu đã nhìn thấy
cuộc tranh chấp chính yếu giữa điều
thiện và điều ác nằm ngay tại trung tâm
đời sống và đang làm hại thế gian.
Ngài không lý luận về nó Ngài phải đối phó
với nó và ban cho những người khác quyền năng
để thắng điều ác và làm điều
thiện.
2/ Chúa
Giêsu cho việc đánh bại bệnh tật là một
phần trong cuộc chiến thằng Satan. Đây là một phần quan trọng trong tư
tưởng của Chúa Giêsu. Ngài muốn
và cứu được thân thể cũng như linh
hồn con người.
III. Tội không thể được
tha: 3,28-30
Nếu
muốn hiểu câu nói khủng khiếp này có nghĩa gì,
chúng ta phải thấu triệt hoàn cảnh nó đã
được nói ra. Câu
ấy do Chúa Giêsu nói khi các Kinh sư và Pharisêu bảo Ngài
đã chữa bệnh không phải do quyền năng Thiên
Chúa nhưng do quyền phép của ma quỷ. Bọn
người này vừa thấy tình yêu của Thiên Chúa,
nhưng lại cho đó là quyền năng nhập thể
của Satan.
Chúng ta phải
bắt đầu bằng cách nhớ rằng Chúa Giêsu
đã không nói về Thánh Thần theo ý
nghĩa đầy đủ như Kitô hữu ngày nay
hiểu. Vì bấy giờ Thánh Thần chưa
đến trọn vẹn trên loài người, cho
đến khi Chúa Giêsu trở về với sự vinh
hiển của Ngài. Chỉ đến ngày Lễ
Ngũ Tuần, loài người mới được kinh
nghiệm trọn vẹn về Thánh Thần. Có thể lúc
ấy, vì đang nói chuyện với người Do Thái nên
Chúa Giêsu đã dùng từ Thánh Thần theo ý nghĩa trong Do
Thái giáo. Trong tư tưởng Do Thái giáo, Thánh
Thần có hai chức vụ quan trọng. Một là Ngài mặc khải chân lý của Thiên Chúa
cho loài người, hai là Ngài giúp loài người nhận ra
chân lý ấy. Như thế, chúng ta đã
có được chiếc chìa khóa cho đoạn sách này.
1/ Thánh
Thần giúp loài người nhận ra chân lý của Thiên
Chúa, khi chân lý ấy đến với đời sống
họ. Nhưng
nếu người nào không sử dụng năng khiếu
Chúa ban thì cuối cùng, người ấy sẽ bị
mất nó. Nếu người ta sống quá
lâu trong bóng tối thì sẽ mất đi khả năng
nhìn thấy. Nếu một người
phải nằm liệt giường quá lâu, người
ấy sẽ không thể bước đi được
nữa. Nếu một người không
chịu học hỏi gì cả, thì lần lần sẽ
mất đi khả năng học hỏi. Nếu một người khước từ
sự hướng dẫn của Thánh Thần nhiều
lần, thì cuối cùng người ấy sẽ không còn
nhận ra chân lý khi nhìn thấy nó. Bấy
giờ, đối với người ấy, điều
ác sẽ trở thành thiện, điều thiện sẽ
trở thành ác. Người ấy có
thể nhìn vào điều thiện của Thiên Chúa mà
bảo đó là điều ác của Satan.
2/ Tại
sao tội như thế lại không được tha? H.B. Swete nói “Đồng nhất hóa
nguồn mạch của điều thiện với
hiện thân của điều ác là có lệch lạc
về đạo đức mà ngay sự Nhập thể
cũng không có thuốc chữa”. A.J. Rawlinson
gọi đó là “sự gian ác chính yếu”, dường
như ngay trong điều đó chúng ta thấy yếu tính
của điều ác. Bengel thì bảo,
tất cả các tội khác đều do loài người,
nhưng tội đó vốn bắt đầu từ Satan.
Tại sao thế?
Hãy xét
đến ảnh hưởng mà Chúa Giêsu thực hiện
trên một người. Hiệu quả đầu tiên mà Chúa Giêsu tạo ra
trên một người là khiến người ấy
được tính cách chẳng ra gì của mình so với
vẻ đẹp đáng yêu của đời sống Chúa
Giêsu. Phêrô đã nói “Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là
kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). lúc Tokichi Ishiii đọc truyện tích trong
sách Phúc Âm đầu tiên, anh ta nói “Tôi dừng lại,
dường như có một cây đinh hai tấc đâm
thấu vào lòng tôi. Tôi phải nói đó là tình
yêu của Chúa Cứu Thế chăng? Tôi
phải nói đó là lòng thương xót của Ngài chăng?
Tôi không biết gọi đó là gì cả, tôi
chỉ biết là tôi đã tin, tấm lòng cứng cỏi
của tôi đã được thay đổi”.
Phản ứng đầu tiên là người ấy rung
động sâu xa như bị đâm thấu tâm can. Và
kết quả của việc đó là người ấy ý
thức được là mình vốn chẳng ra gì, và
kết quả nữa là ăn năn thống hối,
thống hối hoán cải là điều kiện duy
nhất để được tha tội. Nhưng
nếu một người không chịu nghe theo Thánh
Thần thúc dục thì người ấy sẽ chẳng
thấy nơi Chúa Giêsu điều gì đẹp đẽ
đáng yêu cả, sau đó, việc nhìn thấy Chúa Giêsu
chẳng khiến người ấy có ý thức về
tội, vì không ý thức về tội nên người
ấy không thể được tha thứ.
Một trong những câu chuyện kể
về Satan là: Ngày nọ, vị linh mục thấy trong
cộng đoàn có một chàng thanh niên đẹp trai. Sau
giờ thờ phượng, chàng thanh niên ở lại
để xưng tội. Anh ta xưng ra nhiều tội mà
tội nào cũng hết sức khủng khiếp,
khiến vị linh mục phải dởn tóc gáy. Ông hỏi
“Chắc con phải sống lâu lắm mới phạm
nhiều tội đến thế?”. Chàng thanh niên đáp “Tôi tên là Luxiphe, tôi đã
trốn khỏi thiên đàng ngay từ lúc thời gian
mới bắt đầu”. Vị linh
mục tiếp “Cho dù như vậy chăng nữa, hãy nói
là con rất hối hận, nói rằng con ăn năn, con
sẽ được tha thứ”. Chàng
thanh niên nọ trố mắt nhìn vị linh mục một
hồi rồi quay lưng đi ra. Anh
không chịu nói và cũng không thể nói như thế, do
đó anh phải tiếp tục ra đi vào nơi hoang vu,
để lại càng bị lên án, bị nguyền rủa
nhiều hơn.
Chỉ có một
điều duy nhất để được tha tội
đó là biết ăn năn thống
hối. Khi con người nhìn thấy vẻ đáng yêu
trong Chúa Cứu Thế, người ấy còn ghết
tội mình dù rằng chưa thể bỏ được,
ngay cả nếu người ấy đang ở trong bùn
lầy, anh ta vẫn có thể được tha thứ.
Nhưng nếu một người sau khi đã
được Chúa hướng dẫn nhiều lần
đã đánh mất khả năng nhận ra điều
thiện khi nhìn thấy nó, nếu người ấy đã
chai lý đến độ chẳng còn nhận ra
được các giá trị đạo đức,
đến nỗi đối với người ấy thì
thiện là ác mà ác là thiện, thì dù có đối diện
với chính Chúa Giêsu, người ấy cũng chẳng
hề ý thức được về tội, người
ấy vẫn không thể ăn năn thống hối, do
đó sẽ chẳng bao giờ được tha thứ. Đó là tội phạm đến Thánh Thần.
IV. Điều kiện để
trở thành bà con thân thuộc: 3,31-35
Chúa Giêsu quy
định các điều kiện để trở thành bà
con thân thuộc thật sự. Bà con thân
thuộc không phải chỉ là vấn đề cốt
nhục. Chúng ta biết có người chẳng có liên
hệ huyết thống, lại thân cận với mình
hơn cả người bà con có liên hệ huyết
thống gần nhất. Vậy mối liên hệ bà con thân
thuộc đích thực được căn cứ vào
đâu?
1/ Mối liên hệ bà con thân
thuộc đích thực là do một kinh nghiệm chung, nhất là một kinh nghiệm cả
hai cùng vượt qua được một cảnh
ngộ nào đó. Có
người ấy bảo hai người ấy thật
sự trở nên bạn bè khi họ có thể nói với
nhau rằng “Bạn còn nhớ không?” để rồi
tiếp tục nhắc lại cho nhau những gì họ
đã cùng trải qua. Một người
nọ gặp một bà cụ da đen. Một
người quen biết của bà cụ này đã qua
đời. Ông ta hỏi “Bà X mất rồi chắc bà
cụ buồn lắm?”. Bà
cụ đáp “Vâng”, nhưng chẳng lộ chút buồn
rầu. Ông ta nói “Tôi mới gặp hai bà tuần
rồi, cả hai đang cười với nhau, chắc
hai bà thân nhau lắm?”. Bà
cụ đáp “Vâng, chúng tôi là bạn, chúng tôi vẫn
cười đùa với nhau, nhưng muốn thật
sự thân nhau, người ta phải cùng khóc với nhau
nữa”. Đây quả là một chân lý
sâu xa. Nền tảng của mối liên hệ
thật sự thân thuộc là có một kinh nghiệm chung. Các Kitô hữu có kinh nghiệm chung: họ đều là tội nhân đã
được tha thứ.
2/ Mối liên hệ thân
thuộc đích thực là cùng có mối quan tâm chung. A.M. Chigwin kể cho chúng ta một việc hết
sức thú vị trong tác phẩm “Kinh Thánh Trong Việc Phúc
Âm Hóa Thế Giới”. Một trong
những việc khó khăn nhất trong việc phân
phối Kinh Thánh, không phải là việc bán Kinh Thánh,
nhưng làm sao cho người ta đọc Kinh Thánh. Ông tiếp “Tại Trung Hoa vào những ngày
trước khi cộng sản đến, một
người phân phối Kinh Thánh đi từ hàng quán này
đến hàng quán khác, từ nhà này đến nhà khác.
Nhưng ông bị thất vọng vì nhiều độc
giả Kinh Thánh của ông mất dần lòng sốt
sắng, đến khi ông nghĩ ra một kế hoạch,
ông tạo cơ hội cho họ gặp gỡ nhau và
tổ chức họ thành một nhóm đạo
đức, dần dần được tổ chức
đàng hoàng”. Chỉ sau khi các đơn vị riêng lẻ
trở thành của một nhóm được ràng buộc
vào nhau bởi một mối quan tâm chung,
thì mối thông hiệp và liên hệ bà con thân thuộc
thật sự hình thành. Mối bận tâm chung
đã buộc chặt họ thành bà con thân thuộc. Kitô
hữu có mối quan tâm chung, vì tất
cả Kitô hữu đều ao ước được
hiểu biết nhiều hơn về Chúa Giêsu Kitô.
3/ Mối liên hệ bà con thân
thuộc thật sự là việc cùng vâng lời. Các môn đệ của
Chúa vốn là một nhóm người hết sức hỗn
tạp. Đủ thứ niềm tin và ý
kiến trộn lẫn giữa họ. Người
thâu thuế như Matthêu và nhà ái quốc Simôn Nhiệt thành
chắc phải ghét nhau lắm, và hẳn có lúc hai
người đã thù ghét nhau. Nhưng
cả hai đã được buộc chặt vào nhau, vì
đều nhận Chúa Giêsu làm thầy và Chúa. Bất
kỳ một đạo quân nào cũng gồm nhiều con
người thuộc nhiều giai tầng xã hội khác
nhau, có nếp sống khác nhau, ý kiến khác nhau, nếu
được sống chung với nhau trong một thời
gian, họ sẽ kết hợp lại thành một đoàn
người sống chết có nhau, vì họ cùng tuân
lệnh trong quân đội. Người ta dễ trở
thành bạn thân với nhau khi cùng có chung
một thầy, một chủ. Người
ta rất dễ yêu thương nhau khi cùng yêu mến Chúa
Giêsu Kitô.
4/ Mối liên hệ bà con thân
thuộc thật sự là do môt mục đích chung.
Chẳng có gì kết chặt người ta vào nhau tốt
hơn là mục tiêu chung. Đây
là một bài học quan trọng cho Hội Thánh. Khi nói
về mối quan tâm mới mẻ đối với Kinh
Thánh, A.m. Chirgwin đã hỏi “Phải chăng vấn
đề thống nhất Hội Thánh cần
được đặt ra là phải căn cứ trên
Kinh Thánh, chứ không phải vào việc xét lại vấn
đề Giáo Hội”. Hội Thánh sẽ chẳng bao
giờ kéo lại gần nhau khi mọi người còn cãi
nhau về việc tấn phong hàng giáo phẩm, về
tổ chức quản trị Hội Thánh, về tổ
chức các Thánh Lễ và nhiều điều khác
đại loại như thế. Điểm duy nhất
để mọi người có thể kết hợp
với nhau là ai nấy đều tìm cách đưa
nhiều người khác đến với Chúa Cứu
Thế. Mối liên hệ bà con thân thuộc mà họ cùng
nhau đi đến, xuất phát từ một mục tiêu mà
hơn ai hết, các Kitô hữu đều nắm giữ,
đó là tìm cách để hiểu biết Chúa Cứu
Thế hơn và đưa nhiều người vào
nước của Ngài. Các vấn đề
khác, chúng ta có thể bất đồng, nhưng
điều này phải nhất trí.
|