MẪU
TÂM VÔ NHIỄM
(Lễ
Khiết Tâm Đức Mẹ – Trái Tim
Vô Nhiễm Đức Mẹ)
TÔI
ƠI, TẠC DẠ GHI TÂM
MẪU
TÂM VÔ NHIỄM – NHỚ LUÔN TÔN
SÙNG
CUỘC
ĐỜI THAY ĐỔI KHÔNG NGỪNG
MAI
CÔI TỪNG CHUỖI THẬT LÒNG NGUYỆN
XIN
NHÂN
GIAN SẼ HƯỞNG HÒA BÌNH
MẪU
TÂM CHIẾN THẮNG YÊU TINH, QUỶ THẦN
Trong
các lần hiện ra, Đức Mẹ luôn
nhắc nhở việc cải tà quy chánh
để được Thiên Chúa cứu
độ, đặc biệt là những lần
hiện ra tại Fátima – một trong ba mệnh
lệnh là “tôn sùng Mẫu Tâm”.
Cải tà quy chánh cũng là điều
Chúa Giêsu luôn đề cập khi Ngài
còn mặc xác phàm tại thế.
Thánh
Hilariô nói: “Dầu
tội lỗi đến đâu, nếu tôn
sùng Mẹ, cũng KHÔNG HƯ MẤT ĐỜI
ĐỜI được”. Còn
Thánh Gioan Kim Khẩu cho biết: “TÌNH
THƯƠNG BAO LA của Mẹ Maria cứu rỗi
một số rất lớn những tội nhân
theo phép công thẳng của Chúa đã
phải đoán phạt”.
Điều đó cho thấy việc sùng
kính Đức Mẹ rất hữu ích
thiêng liêng, tốt cho linh hồn chúng
ta. Thật vậy, Thánh Tử Đạo
Inhaxiô xác định: “Ai
luôn luôn nhiệt tâm sùng kính
Đức Nữ Trinh Mẹ Thiên Chúa thì
KHÔNG THỂ CHẾT DỮ được. Ôi
lạy Mẹ Đồng Trinh, một tội nhân
không thể được cứu rỗi nếu
Mẹ không cứu giúp hộ phù!”.
Có
Con là có Mẹ, có Mẹ là có
Con. Mẹ và Con không thể xa nhau. Ngay sau
lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là lễ
Khiết Tâm Đức Maria. Tôn kính Con
rồi tôn kính Mẹ. Mẹ là tất
cả của Con, và Con là tất cả
của Mẹ. Đời thường là vậy,
tâm linh cũng chẳng khác. Chúng ta có
người-mẹ-trần-gian là cảm thấy
hạnh phúc lắm rồi, chúng ta còn
hạnh phúc tột cùng vì có
người-mẹ-tâm-linh là Đức
Trinh Nữ Maria, Đấng tinh tuyền của
Thiên Chúa.
Mẹ
luôn kỳ diệu và có nhiều vấn
đề để nói, không bút lực
nào tả hết. Lễ Khiết Tâm cũng
là lễ Mẫu Tâm, lễ Trái Tim Vẹn
Sạch Đức Mẹ. Mẫu Tâm Đức
Mẹ là Trái Tim tinh tuyền, không chút
bợn nhơ, kể cả Nguyên Tội, hoàn
toàn Vô Nhiễm. Kinh cầu Đức Bà
liệt kê nhiều điều về Đức
Maria: “Đức
Bà là Tòa Đấng Khôn Ngoan, Đức
Bà như Hòm Bia Thiên Chúa, Đức
Bà là Cửa Thiên Đàng, Đức
Bà như Sao Mai sáng,…”.
Chắc hẳn Đức Mẹ là người
được tôn xưng bằng nhiều danh
hiệu nhất, không chỉ vì Đức
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mà còn
vì Đức Mẹ là thụ tạo hoàn
hảo. Đức Mẹ thật cao trọng nhưng
lại rất khiêm nhường, chỉ dám
nhận mình là “nữ tỳ của
Chúa” (Lc 1:38). Điều đó càng
làm cho Mẹ nên cao trọng hơn nữa.
Từ
ngàn xưa, thời Cựu Ước đã
ám chỉ về một Người Nữ sẽ
xuất hiện trong thời Tân Ước. Sách
Huấn Ca cho biết: “Đức
Khôn Ngoan tự biểu dương và hãnh
diện ở giữa dân mình. Khôn ngoan
lên tiếng trong đại hội của Đấng
Tối Cao và hãnh diện trước quyền
uy của Người”
(Hc 24:1-2). Đức khôn ngoan biểu hiện
Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng
Khôn Ngoan. Sách Huấn Ca nói rõ:
“Duy
có mình Ta đi vòng cả bầu trời
và rảo bước khắp vực sâu
thăm thẳm. Trên sóng biển, trên
toàn cõi đất, trên mọi nước
mọi dân, Ta nắm trọn chủ quyền.
Giữa chúng hết thảy, Ta tìm chốn
nghỉ ngơi, xem có gia nghiệp của ai để
Ta cư ngụ”
(Hc 24:5-7). Sự khôn ngoan rất quan trọng,
được coi là một nhân đức.
Thánh vương Sa-lô-môn đã
biết mơ ước được ơn khôn
ngoan (1 Sbn 22:12), rồi xin Chúa ban cho sự khôn
ngoan và hiểu biết (2 Sbn 1:10) chứ không
xin gì khác. Vì thế, “Thiên
Chúa cho vua Sa-lô-môn được dồi
dào khôn ngoan, thông thạo, và một
trái tim bao la như cát ngoài bãi
biển” (1 V 5:9).
Ngai
Tòa của Đấng Khôn Ngoan là Đức
Maria, Đức Mẹ cũng chính là Nhà
Tạm đầu tiên từ khi Mẹ nói
lời “xin vâng”, và Đức Mẹ
được mệnh danh là Theotókos
(Θεοτόκος) –
nghĩa là Người-Mang-Thiên-Chúa.
Luôn sẵn sàng “xin vâng” là
cách sống khôn ngoan của Trinh Nữ
Maria.
Nói
về đức khôn ngoan, sách Huấn Ca
cho biết chi tiết: “Ta
đâm rễ sâu giữa một dân hiển
hách, trong phần riêng của Đức
Chúa, cũng là sản nghiệp của
Người. Ta đã vươn lên tựa
cây bá hương vùng Li-băng, tựa
cây trắc bá núi Khéc-môn. Ta
đã vươn lên như cây chà
là ở Ên Ghe-đi, như những khóm
hồng ở Giê-ri-khô, như cây ô-liu
xanh tốt giữa cánh đồng. Như cây
tiêu huyền, Ta đã vươn lên.
Như cây quế, như tước sàng,
Ta nức hương ngào ngạt, Ta toả
hương thơm ngát như mộc dược
quý, như phong tử hương, mã não,
an tức hương, như khói hương
nghi ngút trong lều, Ta vươn nhánh ra
như cây nhựa điều, nhánh của
Ta là nhánh vinh quang tươi đẹp”
(Hc 24:12-16). Gọi là sách Khôn Ngoan vì
trong đó chứa rất nhiều điều
khôn ngoan – một trong các điều
Thiên Chúa yêu quý.
Thật
vậy, Vua Salômôn được Thiên
Chúa ban thêm nhiều thứ khác vì
ông KHÔNG xin gì ngoài đức khôn
ngoan. Sự khôn ngoan thật là cao xa, sâu
thẳm, bao la và vô cùng: “Người
đầu tiên chẳng biết hết khôn
ngoan, kẻ cuối cùng cũng không hiểu
thấu được. Vì tư tưởng
của khôn ngoan rộng hơn đại dương,
ý định của khôn ngoan sâu hơn
vực thẳm. Phần tôi, tôi như kênh
đào chảy từ sông lớn, như
con lạch dẫn nước tới địa
đàng”
(Hc 24:28-30). Sự khôn ngoan thật kỳ diệu,
nhưng phải là sự khôn ngoan từ
Thiên Chúa, chứ sự khôn ngoan của
loài người chẳng nghĩa lý gì.
Thánh Phaolô đã so sánh: “Cái
điên rồ của Thiên Chúa còn
hơn cái khôn ngoan của loài người,
và cái yếu đuối của Thiên
Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của
loài người”
(1 Cr 1:25).
Dù
là người đời, nhưng thi sĩ
Paul Éluard (1895-1952, người Pháp, tên
thật là Eugène Émile Paul Grindel), cũng
đã so sánh thú vị: “Sự
khôn ngoan khiến người ta tồn tại,
còn sự đam mê khiến người ta
sống”.
Tất nhiên điều đó chỉ hiểu
theo nghĩa đời thường, nhưng ở
một “góc độ” nào đó,
cũng rất chí lý khi áp dụng vào
đời sống tâm linh. Ngày xưa, bà
An-na cũng đã khôn ngoan khi bà xác
định: “Tâm
hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa, nhờ
Đức Chúa, con ngẩng đầu hiên
ngang”
(1 Sm 2:1a). Đối với Thiên Chúa, KHÔNG
THỂ thành CÓ THỂ (Lc 1:37; Mc 10:27).
Không
thần linh nào có thể so sánh với
Thiên Chúa, đừng nói chi phàm
nhân, thế nhưng Ngài lại là Đấng
hiền lành và khiêm nhường (x. Mt
11:29), thế nên Ngài hạ bệ bất
kỳ ai dữ tợn và kiêu căng: “Cung
nỏ người hùng bị bẻ tan, kẻ
yếu sức lại trở nên hùng dũng.
Người no phải làm mướn kiếm
ăn, còn kẻ đói được an
nhàn thư thái. Người hiếm hoi thì
sinh năm đẻ bảy, mẹ nhiều con lại
ủ rũ héo tàn”
(1 Sm 2:4-5). Ý tưởng này cũng được
Đức Maria đề cập trong bài
Magnificat khi đến thăm người chị họ
Êlidabét (x. Lc 1:46-55). Cựu Ước và
Tân Ước là một dòng chảy
liên tục và duy nhất.
Mọi
sự đều có thể đối với
Thiên Chúa, vì Ngài toàn năng,
toàn tri, hằng hữu và hằng sinh,
chính Ngài tạo dựng muôn loài
hữu hình và vô hình – nghĩa
là Ngài có toàn quyền cả trên
trời và dưới đất: “Đức
Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử,
đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo
lên. Đức Chúa bắt phải nghèo
và cho giàu có, Người hạ xuống
thấp, Người cũng nhắc lên cao. Kẻ
mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi
cát bụi, ai nghèo túng, Người
cất nhắc từ đống phân tro, đặt
ngồi chung với hàng quyền quý, tặng
ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.
Vì nền móng địa cầu là
của Đức Chúa, Người đặt
cả hoàn vũ lên trên”
(1 Sm 2:6-8). Tuy nhiên, Thiên Chúa chỉ dùng
quyền để nâng đỡ, yêu thương
và cứu thoát chúng ta, chứ Ngài
không dùng quyền để “hành”
chúng ta như phàm nhân quen thói hống
hách, ưa tâng bốc và khoái đè
bẹp người khác.
Là
Thánh Mẫu Thiên Chúa, Đức Mẹ
chắc hẳn phải là người điềm
đạm và trầm tính, bởi vì
Kinh Thánh cho biết rằng Đức Mẹ
luôn “ghi nhớ mọi kỷ niệm và
suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19).
Đức Mẹ thích sống trầm lặng
vì Đức Mẹ luôn cầu nguyện
và kết hiệp mật thiết với Thiên
Chúa. Đời sống cầu nguyện rất
quan trọng đối với các Kitô hữu,
vì thế chúng ta phải không ngừng
học tập và noi gương Đức Mẹ:
Cầu nguyện liên lỉ.
Là
người theo Chúa sau nhưng Thánh Phaolô
lại có nhiều kinh nghiệm để chia
sẻ với chúng ta: “Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức
Kitô, từ cõi trời, Người đã
thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần.
Trong Đức Kitô, Người đã CHỌN
ta TRƯỚC cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người, ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ
tình thương của Người. Theo ý
muốn và lòng nhân ái của
Người, Người đã TIỀN ĐỊNH
cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu
Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng
rạng ngời, ân sủng Người ban tặng
cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”
(Ep 1:3-6). Chắc chắn ca tụng Chúa phải
là nhiệm vụ quan trọng và là
bổn phận hàng đầu của chúng
ta. Đức Mẹ đã im lặng để
hoàn tất công việc này.
Thánh
Phaolô giải thích để minh chứng
điều đã nói trên đây:
“Thiên
Chúa là Đấng làm nên mọi
sự theo quyết định và ý muốn
của Người, đã tiền định
cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp
riêng theo kế hoạch của Người, để
chúng tôi là những người đầu
tiên đặt hy vọng vào Đức
Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người”
(Ep 1:11-12). Đức Mẹ đã bối rối
và rất ngạc nhiên khi Sứ thần
Gabriel báo tin được tuyển chọn
làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng Đức
Mẹ đã vui mừng chấp nhận mà
không chút so đo, bởi vì Đức
Mẹ hoàn toàn TIN TƯỞNG vào sự
quan phòng và tiền định của
Thiên Chúa. Trái Tim Đức Mẹ
trong suốt ánh đức tin và lung linh
sắc màu yêu mến – đối với
Thiên Chúa và tha nhân.
Với
tư cách sử gia, Thánh Luca cho biết
chi tiết: “Hằng
năm,
cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền
Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người
được mười hai tuổi, cả gia
đình cùng lên đền, như người
ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ
lễ, hai ông bà trở về, còn cậu
bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem,
mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà
cứ tưởng là cậu về chung với
đoàn lữ hành, nên sau một ngày
đường, mới đi tìm kiếm giữa
đám bà con và người quen thuộc.
Không thấy con đâu, hai ông bà
trở lại Giêrusalem mà tìm”
(Lc 2:41-45). Cha mẹ nào cũng luôn lo lắng
về con cái, đặc biệt là người
mẹ với trái tim nhạy bén. Linh cảm
của người mẹ mạnh mẽ và
chính xác, thế nên người mẹ
sẽ bồn chồn, không thể bình yên
khi chưa biết con cái đang làm gì
và ở đâu, có an toàn hay không.
Đó là điều kỳ diệu và
thiêng liêng về Tình Mẫu Tử.
Suốt
ba ngày ngược xuôi khắp nơi, hai
ông bà mới tìm thấy Con Trai trong
Đền Thờ, đang ngồi giữa các
thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt
câu hỏi. Ôi chao, cái thở phào
nhẹ nhõm biết bao! Ai nghe Cậu Giêsu
nói cũng phải ngạc nhiên về trí
thông minh và những lời đối đáp
của Cậu Trẻ. Họ càng ngạc nhiên
hơn khi biết Chàng Trai ấy là con ai
và ở đâu, nhưng có lẽ không
ai có thể ngờ rằng chính Chàng
Trai Giêsu đó lại là Đấng
Khôn Ngoan, là Con Thiên Chúa.
Hai
ông bà sửng sốt khi thấy Con, và
với sự quan tâm của một người
mẹ, Đức Mẹ đã nói với
Đức Giêsu: “Con
ơi, sao con lại xử với cha mẹ như
vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây
đã phải cực lòng tìm con!”
(Lc 2:48). Đức Mẹ không thể im lặng
lúc này, vì trái tim người mẹ
chịu bất an mấy ngày qua rồi, khổ
lắm chứ! Rất có thể Đức Mẹ
cũng đã khóc sưng cả mắt
thôi. Còn Đức Thánh Giuse không
nói gì, hoàn toàn im lặng. Tình
cha thâm trầm lắm, nhưng lòng cha cũng
bồn chồn đâu kém lòng mẹ.
Mất con thì có người mẹ nào
thản nhiên được, và cũng
chẳng người cha nào ngồi yên,
nhưng vấn đề quan trọng ở chỗ
là “không đổ lỗi cho nhau”.
Là
Con, đặc biệt là Con Thiên Chúa,
dĩ nhiên Chúa Giêsu biết rõ cha
mẹ lo lắng lắm nên cũng thương
lắm chứ, nhưng Ngài vẫn nói:
“Sao
cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà của
Cha con sao?”
(Lc 2:49). Tại sao vậy? Bởi vì “bổn
phận ở nhà Cha” còn cần hơn,
đó là nhiệm vụ tối quan trọng.
Nhưng ông bà không hiểu hết ý
trong lời của Con Yêu vừa nói. Dĩ
nhiên là vậy, bởi vì hai vị
cũng chỉ là thụ tạo, chưa thể
hiểu được. Nói là nói vậy
thôi, nói để cha mẹ biết, nhưng
vì thương cha mẹ nên Ngài không
chần chừ, liền “đi xuống cùng
với cha mẹ, trở về Na-da-rét và
hằng vâng phục các ngài” (Lc
2:51a). Riêng Đức Mẹ thì “hằng
ghi nhớ tất cả những điều ấy
trong lòng” (Lc 2:51b). Ôi, Tình Mẹ
cũng thâm trầm lắm!
Chắc
hẳn chúng ta có thể nói được
rằng chưa có ai trên đời này
hiểu được lý lẽ của trái
tim người mẹ. Trái tim người mẹ
trần gian còn chưa hiểu nổi, huống
chi Trái Tim Người Mẹ tâm linh –
Mẫu Tâm Vô Nhiễm của Đức
Maria. Là một người nhiệt thành
cổ võ lòng sùng kính Thánh
Tâm Chúa Giêsu và Mẫu Tâm Đức
Maria, Thánh Gioan Eudes (1601-1680) cho biết: “Trái
Tim Mẹ Maria là Trái Tim của Giáo
Hội chiến đấu, Giáo Hội tẩy
luyện và Giáo Hội vinh thắng”.
Trái Tim Đức Mẹ là trái tim của
cả ba Giáo Hội hiệp nhất với
nhau, nói gọn là Trái Tim Mẹ Giáo
Hội.
Ai
cũng biết rằng cha mẹ – sinh dưỡng,
cả đời hy sinh cho con cái, nhưng cha mẹ
không mong con cái đáp lại. Mà
con cái cũng chẳng bao giờ có thể
đền đáp công cha nghĩa mẹ. Để
phần nào báo hiếu cha mẹ, con cái
phải biết sống cho nên người, CÓ
THỂ KHÔNG THÀNH CÔNG nhưng PHẢI
THÀNH NHÂN. Đó là cách báo
hiếu mà cha mẹ mong muốn. Và cha mẹ
cũng chỉ chờ mong như thế là mãn
nguyện rồi.
Đối
với Người Mẹ tâm linh, để tỏ
lòng kính yêu Đức Mẹ và
thành tâm tôn sùng Mẫu Tâm (một
trong ba mệnh lệnh Fátima), chúng ta phải
nỗ lực noi gương Đại Huynh Giêsu
– nghĩa là không ngừng cố gắng
“ngày càng THÊM KHÔN NGOAN và
THÊM ÂN NGHĨA đối với Thiên
Chúa và người ta” (Lc 2:52). Được
như vậy là chúng ta làm vui lòng
Đức Mẹ rồi đấy. Mong thay!
Khi
nói về Đức Maria, Thánh Bênađô
có cách so sánh thật tuyệt vời:
“Thiên
Chúa đã quy tụ tất cả nước
lại một nơi gọi là biển, và
Ngài quy tụ mọi ân sủng nơi một
người là Mẹ Maria”.
Chúng ta cùng tự vấn: “Tôi
có yêu mến Đức Mẹ, và với
mức độ nào?”.
Nếu cảm thấy mình chưa yêu mến
Đức Mẹ thì từ hôm nay, hãy
quyết tâm nghe lời Thánh Basiliô mời
gọi: “Tội
nhân ơi! Đừng tuyệt vọng, đừng
thôi chạy đến với Mẹ trong cơn
túng cực! Cứ gọi Mẹ đến
giúp, bạn sẽ luôn thấy Mẹ sẵn
sàng tới cứu trợ; vì Thánh Ý
Chúa muốn chúng ta đến xin Mẹ
nâng đỡ hộ vực trong mọi trường
hợp”.
Lạy
Thiên Chúa nhân lành và tuyệt
đối, xin thúc giục chúng con sốt
sắng tôn thờ một mình Ngài,
luôn sẵn sàng tuân phục Thánh Ý
Ngài mọi nơi và mọi lúc, điều
mà Đức Mẹ đã chu toàn khi
còn tại thế. Lạy Thánh Mẫu Vô
Nhiễm, xin giúp chúng con biết mau mắn
“xin vâng” và thật lòng khiêm
nhường như Mẹ. Xin Chúa và Mẹ
biến niềm khao khát nên thánh của
chúng con thành sự thật ngay trên thế
gian này. Chúng con chân thành tha thiết
cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
✝ CON
HÁT MẸ NGHE (Thơ: Paul Claudel – Nhạc:
Trầm Thiên Thu)
https://youtu.be/Na9elYGC55g
|