Kỷ vật tình yêu
(Suy niệm của
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúng ta có thể quả
quyết: Mỗi thánh lễ đều là lễ “Mình Máu
Thánh Chúa”. Nhưng ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa
được Giáo Hội ấn định hằng
năm vào ngày Chúa Nhật liền sau Chúa Nhật lễ Chúa
Ba Ngôi, phải có lý do. Đúng, đây là cơ hội đặc
biệt để chúng ta tìm hiểu và suy niệm cách sâu xa
hơn về mầu nhiệm này: một mầu nhiệm
đức tin và cũng là mầu nhiệm tình yêu.
Có một đôi vợ chồng trẻ
kia mới lấy nhau được hơn hai năm. Trong
thời gian đó, họ đã sống với nhau thật
hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày vào buổi sáng trước
khi rời nhà đi làm, và chiều tối khi trở về ngôi
nhà thân thương, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ
một cử chỉ âu yếm và một lời nói yêu
thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng
ngày một thêm thắm thiết, hạnh phúc. Nhưng rồi
hạnh phúc của đôi vợ chồng đã bị
đe dọa. Một hôm, người chồng bị trúng
mưa trên đường đi làm về. Sau đó anh bị
cảm nặng liệt giường và được
người vợ chăm sóc chu đáo. Anh được
mang đến bệnh viện khám và điều trị.
Bác sĩ chẩn đoán anh bị viêm cuống phổi. Dù
được tận tình chữa trị và được
chăm sóc chu đáo, nhưng bệnh tình ngày một thêm trầm
trọng. Cuối cùng bác sĩ xác định anh bị ung
thư màng phổi ác tính vào thời kỳ thứ ba. Khi sắp
chết, anh gọi vợ lại gần trăn trối.
Anh thều thào nói: “Em yêu quý, có lẽ sắp tới giờ
Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị tâm hồn và
sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều
là không được tiếp tục sống bên em nữa.
Anh cám ơn em đã đem lại cho anh những ngày chung sống
hạnh phúc. Trước khi đi xa, để chứng tỏ
tình yêu vĩnh cửu của anh, anh không có gì trối lại
cho em ngoài chiếc nhẫn mà hai vợ chồng mình đã
trao cho nhau, khi cầm tay kết ước trước bàn
thờ Chúa cách đây hơn hai năm. Bây giờ anh xin tặng
chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần
nhìn chiếc nhẫn này, em biết rằng anh vẫn luôn ở
bên em và hằng cầu mong cho em được an vui hạnh
phúc”.
Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang
đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, như hai người
đã làm cho nhau trong ngày cưới. Sau khi chết, anh
được an táng trong một nghĩa trang ở gần
nhà. Sau đó, hằng ngày người ta thấy một phụ
nữ trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm
bó hoa, đi vào nghĩa trang. Chị đứng trước
một ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh và cầu nguyện
cho người chồng quá cố. Trên tay chị ta đeo
hai chiếc nhẫn cưới: một chiếc của
ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người
chồng quá cố để lại cho chị.
Câu chuyện trên có thể
giúp chúng ta hình dung một việc làm chứng tỏ tình yêu
vô hạn của Thiên Chúa, đó là việc Chúa lập phép
Thánh Thể, để lưu lại cho chúng ta một bằng
chứng tình yêu vĩ đại. Thực vậy, trước
giờ biệt ly, trong bữa ăn cuối cùng với các
môn đệ thân yêu, Chúa đã muốn để lại cho
con người một kỷ vật, một vật kỷ
niệm. Ngài không để lại vàng bạc, vì Ngài biết
rằng tiền bạc không nói lên được tình yêu, tiền
bạc hay phản lại tình yêu. Ngài không để lại
một bức thư từ biệt, vì thư bất tận
ngôn, hay một lời nói, vì lời nói như hơi gió, có
đó và hay mất đó. Ngài không để lại bất
cứ một cái gì, bởi vì đối với Chúa, tất
cả mọi thứ ở trần gian này đều tầm
thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm
lòng yêu thương quá nồng nàn của Ngài đối với
nhân loại. Ngài muốn để lại một cái mà
thường tình người ta yêu thương hơn cả,
kỷ vật Ngài muốn lưu lại cho loài người
phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản
thân Ngài, chính mình Ngài.
Nhưng cái bản
thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại
sắp bị bắt và bị giết chết. Do đó,
Chúa phải thực hiện ý muốn trên bằng một thể
thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa
dưới hình thức nhiệm mầu: Chúa lấy bánh và
rượu để biến đổi thành Mình và Máu Chúa,
rồi phân phát cho các tông đồ như của ăn của
uống thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống tâm linh.
Đây là một sự việc hàm chứa rất nhiều
ý nghĩa yêu thương nhưng cũng mang đầy tính
chất đức tin.
Quả thực,
đây là mầu nhiệm đức tin. Bởi vì trí khôn
chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm
nhận được, chỉ có đức tin dạy cho
chúng ta biết: Chúa hiện diện thât sự trong bí tích
Thánh Thể. Rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống
Máu Chúa, đây là lương thực vừa giúp chúng ta sống
khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở
đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại
và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả
quyết: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì tôi sống
trong người ấy, và tôi sẽ cho người ấy
sống lại trong ngày sau hết và được sống
đời đời”. Như vậy, người ăn
Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ
đời này, và mai ngày sẽ thuộc về Ngài mãi mãi.
Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh
cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự
sống lại ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm
Thánh Thể chúng ta long trọng mừng kính hôm nay.
Chúng ta hãy ghi nhớ
và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, chúng ta hãy siêng năng rước lễ.
Mỗi khi tham dự thánh lễ là chúng ta đi dự tiệc,
có ai đi dự tiệc mà lại không ăn uống
chăng? Thế mà có khá đông người tham dự thánh
lễ mà không ăn và uống Mình Máu Chúa. Phải chăng
thánh lễ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận
phải làm, chứ không còn là sự sống được
trao ban? Hay phải chăng vì thấy việc rước lễ
xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên chúng
ta thất vọng và không muốn rước lễ nữa?
Những mối bận tâm như thế không đủ
để chúng ta khước từ nguồn ơn cứu
độ là chính Đức Kitô hiện diện trong bí tích
Thánh Thể.
Thứ hai, tất cả chúng ta
đều tin rằng khi chúng ta rước lễ là chúng ta
được kết hiệp với Chúa Kitô. Nhưng sự
kết hiệp đó phải đưa chúng ta đến sự
hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau.
Đúng ra phải như thế, nhưng thực tế có
được như vậy không? Có lẽ nhiều người
Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với
Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với
nhau. Đàng khác, thánh lễ là diễn lại cuộc tử
nạn của Chúa Giêsu, cho nên bằng chính những hy sinh lớn
nhỏ vì yêu thương phục vụ tha nhân, chúng ta làm trọn
cử chỉ Thánh Thể thực hiện trong thánh lễ,
bởi vì đời ta là một thánh lễ nối dài. Xin
Chúa cho chúng ta luôn sống được như thế.
|