HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
LỄ THÁNH
TÂM NĂM B
Hs 11,1.3-4.8c-9; Ep 3,8-12.14-19; Ga 19,31-37
TÌNH CHÚA TÌNH NGƯỜI
1. TIN MỪNG: Ga 19,31-37
31 Hôm
đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn
để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày
sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin
ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người
bị đóng đinh và lấy xác xuống.32 Quân lính
đến, đánh giập ống chân người thứ
nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh
với Đức Giê-su.33 Khi đến gần Đức
Giê-su và thấy Người đã chết, họ không
đánh giập ống chân Người.34 Nhưng một
người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn
Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.35
Người xem thấy việc này đã làm chứng, và
lời chứng của người ấy xác thực; và
người ấy biết mình nói sự thật để
cho cả anh em nữa cũng tin.36 Các việc này đã
xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không
một khúc xương nào của Người sẽ bị
đánh giập.37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ
sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
2. CÂU
CHUYỆN:
1)
LỊCH SỬ TỪ LỄ THÁNH TÂM ĐẾN LỄ LÒNG
CHÚA THƯƠNG XÓT.
Lòng sùng kính Thánh Tâm
là sự tôn kính đặc biệt đối với tình
yêu của Chúa Giê-su, hiện thân tình yêu vô cùng của Thiên
Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Đức Giê-su
cũng đã biểu lộ tình yêu tột cùng với các môn
đệ nên trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua vào
chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Người đã
lập bí tích Thánh Thể để biến tấm bánh không
men dùng trong bữa tiệc chiên trở thành Thân Mình của
Người sắp bị nộp vì tội lỗi nhân
loại. Rồi Ngừoi cũng đọc lời
truyền phép để biến chén rượu nho trong
bữa Tiêc Ly trở thành chén Máu thánh của Người
sắp đổ ra để đền tội cho nhân
loại. Bí tích Thánh Thể biểu lộ tình yêu của Chúa
Giê-su, được diễn tả cách rõ nét khi trên cây
thập giá, Đức Giê-su còn bị lưỡi đòng
đâm thâu cạnh sườn trúng trái tim và Máu cùng
Nước đã chảy ra từ vết thương này, như
đồ đệ Gioan đã làm chứng đã nhìn
thấy và ghi chép trong sách Tin Mừng (x. Ga 19,34-35). Máu và
Nước đó đã tuôn trào để tẩy rửa
tội lỗi của loài người và cũng để
ban ơn cứu độ và giao hòa loài người với
Thiên Chúa.
Lòng sùng kính Thánh Tâm
Chúa Giê-su đã có từ thế kỷ XI. Nhưng mãi
đến thế kỷ XVI, lòng sùng kính này vẫn chỉ mang
tính riêng tư, gắn với lòng sùng kính Năm Dấu Thánh
của Chúa. Mãi đến ngày 31-8-1670 Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su
mới được cử hành tại Rennes nước Pháp, nhờ công
khó của Thánh Jean Eudes (1602-1680). Từ Rennes, lòng sùng kính
Thánh Tâm đã lan truyền đi nhiều nơi, nhưng phải
chờ đến thánh nữ Margarette Marie Alacoque, lòng sùng
kính Thánh Tâm mới có điều kiện lan rộng đi
khắp nơi trên thế giới.
Trong
những lần được thị kiến thấy Chúa
Giê-su, thánh nữ MARGARETTE MARIE ALACOQUE đã được
Người mặc khải về hình ảnh một Trái Tim của Chúa Giê-su có
ngọn lửa và vòng gai quấn quanh. Lần
hiện ra quan trọng xảy ra vào ngày 16-6-1675, Chúa Giê-su đã
hiện ra yêu cầu Thánh nữ Margarette xin với giáo quyền
cho cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su vào ngày thứ Sáu sau
lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, để đền bù sự vô
ơn bạc nghĩa của loài người đối
với tình yêu vô cùng và sự hy sinh cao cả của Chúa Giê-su.
Thánh Tâm không những là biểu hiệu của một trái
tim thể lý mà còn biểu hiệu tình yêu thương vô biên
của Chúa đối với nhân loại.
Lòng sùng kính Thánh Tâm đã
được phổ biến từ sau khi Thánh nữ
Margarette Marie Alacoque qua đời vào năm 1690, nhưng phải
mãi đến năm 1765, lễ Thánh Tâm mới
được cử hành chính thức tại nước Pháp.
Gần 100 năm sau (1856), ĐGH Piô IX đã truyền
mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa cho toàn thể Hội Thánh theo
đề nghị của Hội đồng Giám mục
Pháp. Thánh Thể và Thánh Tâm đều là Nguồn Tình Yêu vô biên
của Chúa Giê-su, Đấng đã yêu thương nhân
loại tội lỗi đến cùng, đến nỗi bằng
lòng chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá để
đền bù tội lỗi của họ và ban ơn
cứu độ cho họ.
Ngày nay, Chúa Giê-su cũng
đã mặc khải về Lòng Thương Xót của
Người cho Thánh nữ FAUSTINA KOWALSKA người Ba Lan
(1905-1938). Người cũng yêu cầu thánh nữ hãy xin với
giáo quyền thiết lập lễ kính Lòng Chúa Thương
Xót bằng những lời sau: “Ta muốn
một tấm hình được làm phép trọng thể
vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn
tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi
linh hồn đều biết đến tấm hình
đó” (Nhật Ký, số 341).
Lễ kính Lòng Chúa
Thương Xót đã được đức thánh giáo
hoàng Gioan Phaolô II người
Ba-lan chính thức thiết lập vào ngày 30/4/2000 và
truyền mừng trọng thể lễ kính Lòng Chúa
Thương Xót trong toàn thể Hội Thánh vào Chúa Nhật
II Phục Sinh hằng năm.
Gần đây, Đức
thánh cha Phanxicô tyuyên bố sẽ chính thức mở Năm Thánh Kính Lòng Chúa
Thương Xót (2016) để
tạo cơ hội cho các con cái Hội Thánh khám phá
những nét mới mẻ của Lòng Chúa Thương Xót,
kín múc dồi dào những hồng ân đang tuôn trào từ
nguồn suối vô tận là Trái Tim rất thánh của Chúa Giê-su.
Trong Năm Thánh này, hãy để cho Tình Yêu và Lòng
Thương Xót của Chúa thanh tẩy và nhào nắn chúng ta
nên những tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót,
nhờ đó lòng tràn ngập niềm vui chúng ta sẽ
đủ tự tin ra đi để chia sẻ tình
thương của Chúa đến cho mọi người.
2)
MƯỜI HAI LỜI HỨA CỦA THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Để khuyến khích
mọi người hiểu biết lợi ích của
việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, Người đã hứa với
Thánh nữ Margarette Marie Alacoque sẽ ban những ơn ích
thiêng liêng cho những ai sùng kính Thánh Tâm như sau:
1-Ta
sẽ ban cho họ mọi ân sủng cần thiết trong
đời sống.
2-Ta
sẽ ban bình an cho gia đình họ và sẽ tái hợp các
gia đình đã ly tan.
3-Ta
sẽ an ủi họ trong mọi lúc khó khăn.
4-Ta
sẽ là nơi họ trú ẩn khi sống và trước
khi chết.
5-Ta
sẽ ban Phép Lành Nước Trời trên công việc
của họ.
6-Các
tội nhân sẽ tìm được Nguồn Thương
Xót vô hạn nơi Thánh Tâm Ta.
7-Các
linh hồn lạnh nhạt sẽ trở nên nhiệt thành.
8-Các
linh hồn nhiệt thành sẽ mau đạt tới sự
trọn lành.
9-Ta
sẽ chúc lành cho nơi nào trưng bày và tôn sùng linh ảnh
Thánh Tâm Ta, và Ta sẽ ghi dấu tình yêu của Ta vào lòng
những người đeo hình Thánh Tâm Ta. Ta cũng sẽ
phá hủy mọi sự rối loạn nơi họ.
10-Các linh mục
nhiệt thành tôn sùng Thánh Tâm Ta thì Ta sẽ ban cho họ
ơn hoán cải các linh hồn chai cứng nhất.
11-Những
người truyền bá lòng tôn sùng này sẽ
được ghi tên trong Thánh Tâm Ta, không bao giờ phai nhòa.
12-Ta hứa với
lòng thương xót vô biên của Thánh Tâm Ta rằng những
người rước lễ vào Thứ Sáu Đầu Tháng
trong 9 tháng liên tiếp, tình yêu mãnh liệt của Ta sẽ
ban cho ơn ăn năn trở lại trong cuối
đời: Họ sẽ không chết trong tình trạng
thất sủng hoặc không được lãnh nhận các
bí tích. Thánh Tâm Ta sẽ là nơi trú ẩn an toàn cho họ
trong giờ sau hết.
Lời Chúa hứa
luôn chắc chắn. Hãy tin tưởng và hãy dành 9 ngày
Thứ Sáu Đầu Tháng để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su,
nghĩa là thực hành việc tôn sùng và yêu mến Thánh Tâm
Chúa Giê-su liên tục và rước lễ trong 9 ngày Thứ
Sáu Đầu Tháng.
3) SỨC MẠNH CỦA ẢNH THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Vào năm
1597 lệnh cấm đạo Công giáo trên đất
Nhật xảy ra gắt gao. Chỉ trong một tuần
lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị
triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo
dân bị phân tán và khủng bố.
Tại vùng ODAWARA, Kamakura, người
ta bắt được hai Linh mục trẻ tuổi là
Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng và giải
về Tokyo. Quan đại thần TSUKAMOTO lấy từ
trong đống ảnh đạo một bức ảnh Thánh
tâm Chúa Giê-su. Ông nói: Người gì đâu lại để
trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế và thích tìm
hiểu. Ông cầm bức ảnh trái tim Chúa coi qua rồi
vứt vào trong sọt rác. Nhưng đến tối khi
đi ngủ, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh
kỳ lạ kia hẳn phải có một ý nghĩa nào
đó. Ông ra nhặt lại bức ảnh trên để
trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà ông vẫn
ngồi bất động một mình với bức
ảnh trước mặt. Mãi đến gần một
giờ sáng, vị đại thần mới thở ra
nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới
bức ảnh mấy chữ sau: ”đối ngoại
hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”.
Từ
đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim Chúa trên bàn làm
việc cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên OSAKI
đến chơi, thấy bức ảnh liền hỏi :
-
Này
anh bạn. Anh lại thích ảnh tượng của
bọn tả đạo rồi sao ?
-
Đứng
về mặt chính trị của triều đình thì tôi
không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn
hóa và nhân đạo thì tôi lại thấy rất thích
bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã
nói lên chương trình, hành động cùng lối xử
thế của Kitô giáo. Tôi xin tạm giải thích như sau:
Đối với tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với
bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên người theo đạo mới
vẽ trái tim ra ngoài cơ thể... Nghĩa là phải
đem hết tình yêu nơi trái tim mà phục vụ xã
hội và giúp ích cho đời; còn về phần mình thì chấp
nhận hy sinh, không lo riêng cho bản thân, diệt trừ cái
ngã vị kỷ. Đem hết tình thương ra giúp
đời giúp người.
Trong bức ảnh này tôi nhận thấy
đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi
của Đức Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ
của Khổng Tử, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão
Tử, mạnh mẽ hơn cái Dũng thuật của
Thần Đạo Nhật bản chúng ta. Một tôn giáo
dạy phải phụng sự nhân loại, yêu thương
mọi người, không quan tâm đến tư lợi,
thì quả là sự ngay chính của cả Thiên hạ
vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt tinh thông của
ông bạn. Ông không ngờ Đạo Công giáo lại hàm
chứa một triết lý nhân sinh cao siêu đến như
vậy. Từ đó hai ông đã trở nên những
người bạn chí thân và đã âm thầm đón nhận
phép rửa tội, và vận động triều đình
thả hai linh mục ra.
(Trích trong: Hạt giống nảy mầm).
3.
THẢO LUẬN: 1) Thánh Tâm Chúa Giê-su đã biểu lộ
tình yêu tột cùng đối với loài người chúng ta
thế nào ? 2) Mỗi người chúng ta cần làm gì
để thể hiện tình yêu đối với tha nhân hầu
đáp lại tình yêu vô biên của Chúa Giê-su đối
với chúng ta ?
4. SUY
NIỆM:
1)
Ngọn lửa yêu mến phát xuất từ Thánh Tâm Chúa Giê-su:
Chúa Giê-su
đã nói về lửa yêu mến của Người: “Thầy đã đến
ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước
mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Ngọn lửa yêu
thương của Chúa cần được bùng cháy lên
trong tâm hồn các tín hữu. Trên cây thập giá Người
đã nói: “Ta khát” (Ga 19,28), Ngài khát tình yêu của chúng ta và
Người đã yêu thương chúng ta. Ngôn sứ Hôsê
tuyên sấm về tình yêu của Đức Chúa như sau: “Trái
tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (x. Hs 11,8).
Chúa Giê-su đã chứng tỏ tình yêu tột cùng của
Người đối với chúng ta: “Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của
người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình” (Ga 15,13). Người
yêu thương chúng ta vô điều kiện, yêu ta ngay khi
chúng ta đang còn là tội nhân (Rm 5:8) và yêu đến tột
cùng (ga 13:1). Người muốn chúng ta học nơi
Người về phong cách yêu thương là đối
xử dịu hiền và khiêm tốn phục vụ
người mình yêu: “Anh em
hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có
lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ
được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt
11:29). Chúng ta không
thể không yêu thương vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Ngày
nay chúng ta không thể đến được với Thiên
Chúa Cha nếu không đi con đường Giê-su là yêu
thương chia sẻ hạnh phúc cho tha nhân: “Chính Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa
Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Người đến
để yêu thương là “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga
10:9-10).
2)
Sức mạnh của lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa:
Lửa có
đặc tính kỳ diệu: Lửa có vẻ mềm
yếu nhưng cũng có sức mạnh to lớn– mạnh
hơn mọi thứ sức mạnh. Một đốm
lửa nhỏ có thể dập tắt dễ dàng bằng
một làn gió nhẹ, nhưng một ngọn lửa
lớn thì không dễ gì dập tắt được. Gió
càng lớn lại càng làm cho ngọn lửa bùng cháy mạnh
hơn. Lửa khi được chia sẻ ra nhiều không
hề giảm bớt sức mạnh mà càng nhân sức
mạnh thêm lên nhiều! Lửa yêu mến từ Thánh Tâm
Chúa Giê-su cũng có sức mạnh như vậy. Ai yêu
mến Chúa và kết hiệp với Chúa thì sẽ
được Người thông ban ngọn lửa yêu
mến có tác động kỳ diệu đến những
tâm hồn khô khan nguội lạnh như vậy.
3) Thánh Thể gắn liền với Thánh Tâm: Trong tuần Chúa Nhật lễ
kính Thánh Thể Chúa Giê-su, Hội Thánh cũng mừng kính
Thánh Tâm Chúa vào ngày thứ sáu.
Khi diễn tả
tình yêu, người ta thường dùng hình ảnh trái tim
bị lưỡi gươm đâm thâu. Qua đó cho
thấy: Yêu là CHO nhiều hơn NHẬN! và mọi
người đều muốn yêu và được yêu. Con
tim có những lý lẽ riêng mà lý trí không thể hiểu
biết được, như lời thánh Phao-lô trong
thư Rô-ma: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi
chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là
bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).
4) Sống yêu thương
bằng việc quảng đại chia sẻ cho đi:
Thiên
Chúa đã yêu thương loài người chúng ta qua việc
chậm giận và hay tha thứ, ở lại trong tình yêu
của Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ điều răn
của Chúa.
Tác
giả thánh vịnh 103 diễn tả tình yêu của Chúa
cụ thể như sau: “Chúa là
Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận
và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán
hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8 và
10).
Thánh
Gio-an cũng khuyên các tín hữu yêu thương nhau như
sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì
tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu
thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và
người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương
thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8).
Thánh nhân cũng mời gọi các tín hữu
yêu thương nhau: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã
yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải
yêu thương nhau... Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong
tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại
trong người ấy” (1 Ga 4:15-16).
Tin
vào tình yêu của Thiên Chúa là tín thác mọi sự cho lòng
thương xót của Người, tin
Chúa bằng cả con người của chúng ta chứ
không chỉ bằng môi miệng bề ngoài. Chúa
Giê-su luôn mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). “Nếu anh em giữ các điều răn của
Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình
thương của
Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn
của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của
Người” (Ga 15:10). Yêu ai thì làm theo ý
người đó, muốn cho người
ấy được vui và muốn nên giống người ấy.
Tình yêu của
Chúa Giê-su đã được Người diễn tả qua
hình ảnh “TRÁI TIM BỊ ĐÂM THÂU”. Vì thế,
Người đã bày tỏ cho thánh nữ Ma-ga-ri-ta (thế
kỷ 15) hình ảnh “TRÁI TIM CÓ LỬA VẤN VÒNG GAI” chung
quanh và truyền cho Ma-ga-ri-ta hãy truyền bá rộng rãi ảnh
này khắp nơi.
5. LỜI CẦU:
“Ôi Giêsu, tình yêu của con, cuối cùng
con đã tìm thấy ơn gọi của con; ơn gọi
của con là tình yêu…Vâng lạy Thiên Chúa của con. Giữa
lòng Hội Thánh, con sẽ là tình yêu. Như thế, con
sẽ là tất cả và giấc mơ của con sẽ
mỹ mãn”... “Xin ban cho con tình yêu của Chúa, con vui lòng làm hy
tế cho tình yêu, nghĩa là, nhận lấy tất cả
tình yêu mà người khác không muốn lãnh nhận, bởi
vì họ không để cho Chúa yêu họ theo cách Ngài
muốn”. (Theo thánh Tê-rê-sa HĐ)
LM ĐAN VINH - HHTM
|