Làm chứng
về Thầy - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc
Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Muốn làm chứng đầy đủ về
ai, người ta thường kể tiểu sử nhân vật
đó từ khi sinh đến khi chết. Về các anh hùng,
danh nhân, sử sách thường ghi những chiến công, những
thành tích siêu quần bạt chúng: Hưng Đạo với
chiến thắng oai hùng Bạch Đằng, Quang Trung với
chiến thắng thần tốc Đống Đa.
Đức Giêsu làm chứng mình đã sống
lại thật, bằng một phép lạ chưa từng
có trên đời này. Để các tông đồ tin, Người
đã làm hết mọi cách, từ tâm lý đến vật
lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng
lời đã hứa.
Về tâm lý: Người chúc lành cho các ông: “Chúc
anh em được bình an”. Bình an là trạng thái hòa hợp
lành mạnh trong tâm trí, trong cơ thể và trong tương
giao với người khác. Các tông đồ đang trong
hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ.
Cần thiết Chúa phải ổn định tinh thần
các ông, làm cho tâm trí các ông bình tĩnh, lành mạnh, yên hàn, các
ông mới sáng suốt nhận định rõ ràng. Khi các ông
được bình an, Chúa mới chỉ cho các ông thấy về
thể lý bên ngoài.
Về thể lý: Người bảo các ông phải
phân biệt rõ ràng Thầy khác với bóng ma hiện về:
Người chết hiện về, chỉ là bóng ma không rờ
xem xương thịt được. Còn Thầy: Thầy
đưa chân tay, xương thịt cho các ông rờ xem.
Các ông đã nhìn tận mắt, xỏ tận lỗ đinh
chân tay Thầy. Ma không ăn uống như người sống,
còn Thầy, Thầy cầm lấy khúc cá nướng do chính
các ông đưa và Thầy ăn trước mặt các ông.
Về lịch sử: Khi các ông đã trở về
tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi Thầy
mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch
sử: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất
cả những gì sách luật Môisê, các sách Ngôn sứ và các
Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải
được ứng nghiệm”.
Đó là những sách người Do thái đọc
mỗi ngày Sabbat trong các hội đường. Họ thấy
rõ toàn bộ Kinh thánh diễn tả toàn bộ lịch sử
dân tộc hướng về Đấng Cứu Thế. Mỗi
một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc đều
là một điển hình chỉ về Đấng Cứu
Thế, như: Noe, Abraham, Giacóp, Giuse, Môisê, Giosuê, David, Salômon
… Nhưng không một vĩ nhân nào hội đủ mọi
tư cách của Đấng Cứu Thế. Đời sống
mỗi vị đó chỉ diễn tả được
vài tư cách đặc sắc của Đấng Cứu
Thế. Chỉ có Đức Giêsu, Đấng độc nhất,
hội đủ mọi nhân cách và hoàn thành mọi ưu
điểm của Đấng Cứu Thế, vì chính
Người là Đấng Cứu Thế. Mỗi một
tiên tri cũng chỉ loan báo một vài mầu nhiệm về
Đấng Cứu Thế, dù vĩ đại như Êlia,
Êlisê, Isaia, Giêrêmia hay Êzêkiel cũng không thực hiện
được đầy đủ lời Thiên Chúa mặc
khải cho họ. Các vị ấy đều thấy mình bất
xứng như tiên tri Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi,
tôi là người môi miệng nhơ bẩn, ô uế” (Is. 6,
5).
Chỉ mình Đức Giêsu là Đấng thực
hiện mọi mầu nhiệm làm đẹp lòng Chúa Cha mọi
đàng “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”
(Mc. 1, 11).
Đức Giêsu nói cho các tông đồ biết
toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Người.
Nếu Kinh thánh không ứng nghiệm về Người,
thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Kinh thánh loan báo về
Đấng Cứu Độ và ngoài Đức Giêsu ra không
ai đem lại ơn cứu độ (Cv. 4, 12). Để
thấy rõ như thế Người đã “dẫn giải
cho các ông những điều viết về Ngài trong toàn bộ
Kinh thánh” (Lc. 24, 27 theo Nguyễn thế Thuấn dịch).
Để có thời gian giải thích, chắc Người
phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác
định là bốn mươi ngày được ghi rõ
trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn
dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy
là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ
hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện
ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” (Cv.
1, 3).
Thời gian bốn mươi ngày đã quá
đủ để các tông đồ thấy chắc chắn:
Thầy đã sống lại thật.
Đến lượt các tông đồ
được Người trao cho sứ mạng: “Phải
nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu
từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để
được ơn tha tội. Chính anh em làm chứng về
những điều này”.
Trong bài đọc một, Phêrô đã làm chứng
cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh,
đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp
Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô,
dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát
nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội
lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối:
“Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo”
(Cv. 2, 41).
Bài đọc hai, Gioan đã làm chứng về
“Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người
là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn
đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi
Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng
đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ
lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến
Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được
mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời
Đức Kitô là kẻ nói láo.
Đức Kitô đã làm chứng về
Người đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các
tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng
về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta
vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức
làm chứng về Người.
Chúng ta không làm chứng về Đức Kitô,
chúng ta là người không có lòng mến Thiên Chúa và biết
được mình không ở trong Đức Kitô, thì chúng ta
không thể được sống lại vinh quang với
Người.
Lạy Chúa Cha
toàn năng, xin cho chúng con biết làm chứng về Đức
Giêsu Kitô bằng đưa bình an đến cho mọi
người, bằng hy sinh chịu thương khó phục
vụ mọi người, bằng học hỏi và loan
truyền lời Chúa và nhất là thực hiện sống
đúng với lời mình nói. Như Chúa Giêsu đã thực
hiện đúng với lời Thánh Kinh và lời Người
loan báo: “Con Người phải chịu khổ hình, rồi
ngày thứ ba, sẽ từ cõi chết sống lại”.
|