Đã thấy, đã không thấy
(Suy niệm của Lm Trịnh ngọc Danh)
Sau khi sống lại, vào ngày thứ
nhất trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện ra lần thứ
nhất với các tông đồ, nhưng vắng mặt
ông Tôma. Ngài đã chúc bình an và cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Các môn đệ
vui mừng vì đã được xem thấy Chúa, và họ
đã cho ông Tôma biết: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”;
nhưng ông này cương quyết: “ Nếu
tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu
tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc
bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”
Tám ngày sau, các môn đệ lại
họp nhau trong nhà; lần này có mặt ông Tôma. Chúa Giêsu lại hiện ra lần thứ hai cùng các
ông. Sau khi chúc bình an, Ngài đã cho ông Tôma xem những dấu
đanh nơi bàn tay và vết thương nơi cạnh
sườn Ngài và đã khiển trách ông: “ Chớ
cứng lòng, nhưng hãy tin”. Và ông Tôma chỉ còn biết kêu
lên: “ Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Và Ngài nói tiếp với ông: “ Tôma, vì con
đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc
cho những ai đã không thấy mà tin”.
Đã xem thấy, đã tin
Cũng như các môn đệ khác, ông Tôma
cũng đã từng được nghe những giáo huấn
của Chúa, đã được xem thấy những việc
kỳ lạ Ngài đã làm, và cũng được nghe Ngài
tiên báo về cái chết và sự phục sinh của Ngài...;
nhưng ông vẫn còn bán tín bán nghi về việc chết
đi sống lại của Thầy mình; vì, Chúa quyền
năng có thể làm cho người chết sống lại
như trường hợp ông Lagiarô thì còn hiểu
được; nhưng đàng này, chính Chúa lại phải
chết và lại tự cho mình sống lại thì thật
là một việc quá sức tưởng tượng của
ông: Làm sao lại có thể có chuyện ấy được!
Và đức tin của ông đã bị chao đảo! Ông
nghi ngờ đòi cho được tận mắt thấy
những dấu đanh nên thân thể Chúa mới tin cũng
phải thôi, vì ông đã một lần thất vọng khi
thấy Thầy, một Đấng quyền phép mà ông
đã tin, lại phải chịu nhục hình cho đến
chết trên thập giá. Cũng còn may là ông còn lui tới với
cộng đoàn, không như hai môn đệ trên đường
Êmau, sau khi Thầy chết, đã thất vọng, sợ
hãi tìm đường trốn chạy. Điều
đó cho thấy ông vẫn còn tin tưởng vào Thiên Chúa, vẫn
còn muốn đạt đến một đức tin viên
mãn để được cứu độ.
Tuy bị Thầy khiển trách
là cứng lòng tin, nhưng qua đó, ông đã thấy và ông
đã tin. Đức tin của ông đã được
củng cố cho vững mạnh hơn bao giờ hết
đến nỗi ông đã kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa tôi”.
Cũng không phải chỉ có
ông Tôma mới nghi ngờ sự sống lại của Thầy
mình, mà ngay chính những người được tận
mắt thấy ngôi mộ trống cũng bán tín bán nghi.
Ngày thứ nhất trong tuần, từ sáng
tinh mơ, các bà mang theo thuốc thơm
đã chuẩn bị sẵn. Thấy hòn đá đã lăn
ra khỏi mồ, bước vào trong, không thấy xác Chúa,
bà Maria Mađalêna đã hốt hỏang chạy về báo: “ Người ta đã lấy xác Thầy khỏi
mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để
Thầy ở đâu” ( Ga 20: 2); và đang khi còn ngơ ngác,
vào trong mồ, thì thấy một thanh niên ngồi bên phải,
mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng
người đó bảo các bà: “ Các bà
đừng sợ. Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiareth chịu
đóng đinh, nhưng người đã sống lại…”. Các bà chạy ra và trốn khỏi
mồ, vì các bà run rẩy bàng hoàng. Các bà không nói gì với
ai, vì các bà sợ hãi... (Mc. 16, 6-8)
Trở về nhà, các bà thuật lại cho các
tông đồ; “nhưng những lời đó, các ông cho là
truyện vớ vẩn, nên các ông không tin” (Lc. 24,11)
Vì không thấy, nên ông Tôma chỉ đòi hỏi
thấy mới tin, nhưng các bà và các tông đồ đã
thấy, đã nghe nói về việc ngôi mộ trống, về
việc Chúa đã sống lại, thế mà các bà thì sợ
hãi cho là ma, còn các ông thì cho đó là truyện vớ vẩn. Ai là người kém lòng tin hơn ai?
Hơn nữa, đứng về
phương diện đức tin, thì có thể ông Tôma là
người cứng lòng tin, nhưng đứng về
phương diện khoa học, thì sự nghi ngờ của
ông lại là điều cần thiết để tìm ra sự
thật. Nếu khoa học kiểm chứng được
những gì chúng ta phải tin, thì những điều chúng
ta tin mà khoa học khám phá, chứng minh được, thì
cũng chẳng còn gì là siêu việt đối với trí óc
của con người.
Ông Tôma cứng lòng tin, vì ông muốn
lấy lý trí để củng cố cho lòng tin của ông.
Có thể ông đã nghĩ rằng: Nghe người ta nói
Chúa đã phục sinh chưa đủ, tôi còn phải tận
mắt nhìn thấy Ngài, và phải được tiếp cận
thân thể đầy thương tích của Ngài, thì tôi mới
tin.Và cuối cùng, Tôma đã thấy và ông đã tin: “Lạy
Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Việc ông Tôma đòi hỏi
được nhìn, được sờ, được
kiểm chứng Đấng Phục sinh không chỉ là một
đòi hỏi cho riêng ông, nhưng cũng là một chứng
tích cho chúng ta hôm nay.
Đã không thấy mà tin
Và sau khi nhân định về lòng tin của
ông Tôma: Vì con đã thấy và con đã tin; Chúa lại
đưa ra một mẫu lòng tin khác được chúc
phúc; đó là: Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Qua sự việc của ông Tôma, Chúa đã
gián tiếp nói với chúng ta là những người sinh ra
“hậu Phục sinh”, những người đã không thấy
Chúa sống, chết và phục sinh, nhưng chúng ta tin. Chúng
ta chỉ được đọc, được nghe về
Thiên Chúa, về Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa
xuống thế làm người vì yêu thương con người,
để rồi chịu chết và đã phục sinh…;
nhưng chúng ta không được may mắn như dân Chúa
xưa kia hay gần gũi hơn là các môn đệ đã thấy
và đã tin.
Cám ơn các tông đồ và
đặc biệt cám ơn ông Tôma đã giúp chúng ta xác tín mạnh
mẽ hơn về việc Chúa sống lại, về lòng
tin của mình.
Từ ngàn xưa, con người nói chung và
con cái Thiên Chúa nói riêng đã thấy, đã tin, nhưng vẫn
còn vô số người đã thấy, nhưng vẫn chối
từ, vẫn không tin. Đã không thấy mà tin là một
đòi hỏi rất khó đối với đức tin,
đồng thời cũng là một yếu tố xác định
mức độ lòng tin của chúng ta.
Đức tin và bình an
Trong cuộc hành trình đức tin, những
người đã không thấy mà tin và ngay cả những
người đã thấy và đã tin vẫn luôn gặp những
trở ngại, nghi ngờ, lo lắng, bất an.
Các môn đệ, sau cuộc “bức tử” của
Thầy Giêsu, họ đã hoang mang, lo lắng, sợ sệt,
bất an: số phận của họ rồi sẽ ra sao?
Ai sẽ là người hướng dẫn để tiếp
tục công việc của Thầy?... Tụ lại với nhau, nhưng cửa đóng
then cài.
Và những người đã
không thấy mà tin thì sao? Đức tin của chúng ta ở
mức độ nào? Chúng ta tin, nhưng đã sống và chết
vì đức tin như thế nào?
Đức tin chưa đủ mạnh,
chưa quyết liệt, chưa xác tín..thì
luôn gặp những bất an. Thử thách, gian nan, khổ cực
là thước đo đức tin, là những bất an
trong tâm hồn.
Hiểu được tâm trạng lo lắng,
sợ sệt, bất an của các môn đệ, nên qua hai lần
hiện ra với các ông sau khi sống lại, lời trấn
an đầu tiên mà Chúa gửi đến các ông là: “Bình an
cho các con” và Ngài hứa sẽ sai Thánh Thần xuống để
cùng đồng hành với họ. Như thế là họ sẽ
được bình an, được an
tâm để lên đường tiếp tục công việc
của Thầy, không còn phải lo lắng, hoang mang.
Và cũng hiểu được tâm trạng
bất an của chúng ta ngày nay, Chúa cũng đã chúc bình an
và hứa với chúng ta rằng: “Thầy sẽ xin Cha Thầy,
và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ
khác để Ngài ở với các con luôn mãi”. (Ga.
14,15). Cũng như các môn đệ họp
nhau vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện ra
và chúc bình an cho họ, ngày Chúa nhật họp nhau tham dự
Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận bình an của Thiên
Chúa và chúc cho nhau bình an của Ngài để rồi lại
ra đi trong bình an của Ngài đến với anh em. Bình an ấy là kết qủa của đức
tin.
Chúng ta là những người “đã không thấy
mà tin”, và đã được Chúa chúc phúc; vì, như Thánh
Gioan Tồng đồ đã viết trong thư thứ nhất
của ngài: “Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thì kẻ
ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Đấng sinh
thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Đấng ấy.
Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến
con cái thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành
các giới răn Người…, và giới răn Người
không nặng nề. Vì những gì sinh bởi
Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây
là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức
tin của chúng ta. Ai là người chiến
thắng thế gian nếu không phải là người tin rằng
Chúa Giêsu là Con Chiên Chúa? (1Ga. 5,1-6)
Đức tin đem lại cho chúng ta bình an của Thiên Chúa. Không những chúng ta phải
tuyên xưng đức tin mà còn phải sống đức
tin: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết;
cũng vậy, đức tin không có hành động là đức
tin chết.” (Gc. 2,26)
|