CHÚA
GIÊSU và QUÂN DỮ
Sau
nụ hôn phản bội, Giuđa lẩn vào
đám người đến bắt Chúa
Giêsu. Công việc của hắn đã
xong. Việc hắn phải làm lúc này
là hồi hộp quan sát với hy vọng
rằng những người bắt Chúa Giêsu
sẽ thực hiện đúng giao kèo và
không để Chúa Giêsu vuột khỏi
như bao lần trước trong quá khứ.
Chúa
Giêsu không có ý định như
vậy, nếu Ngài muốn thì cũng
chẳng ai làm gì được Ngài.
Thay vì chờ kẻ thù ra tay, Ngài nói
với họ: “Quý
vị tìm ai?”.
Họ đáp: “Tìm
Giêsu Nadarét”.
Ngài xác nhận: “Chính
tôi đây”.
Mặc dù đã có dấu chỉ điểm
của Giuđa là nụ hôn, họ có
vẻ vẫn nghi ngờ. Ngu dốt hết sức!
Họ nghi người này dám ra mặt như
thế thì không thể là người
mà họ muốn bắt.
Thánh
Gioan cho biết rằng khi Chúa Giêsu nói
“Chính tôi đây” thì quân
dữ đã “lùi lại và ngã
xuống đất”. Khi giải thích về
sự té ngã của họ, chắc chắn
rằng Thánh Gioan coi đó là một
phép lạ do quyền năng của Chúa.
Có thể không phải cả đám
họ đều ngã hết; có thể chỉ
những người đứng ngay trước
mặt Chúa Giêsu mới ngã, đó
chính là những viên chỉ huy đã
hỏi Chúa Giêsu.
Chúa
Giêsu cho phép điều gì đó
thuộc quyền năng của Ngài để
chiếu tỏa trong lời Ngài và vẻ
uy nghi của Ngài, kẻ thù phải giật
lùi và ngã nhào. Đây không
là lần đầu tiên Chúa Giêsu
khiến kẻ thù hoảng sợ vì vẻ
uy nghi của Ngài (x. Ga 7:44; 10:39). Ngài sẽ
mở đường cho họ bởi vì đó
là ý muốn của Chúa Cha, nhưng
không phải trước khi cho họ thấy
rằng Ngài tự do hành động. Ngài
làm trọn lời tiên tri của ngôn
sứ Isaia: “Bị
ngược đãi, người cam chịu
nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như
chiên bị đem đi làm thịt, như
cừu câm nín khi bị xén lông,
người chẳng hề mở miệng”
(Is 53:7). Ngài làm vậy không phải vì
yếu đuối mà vì chọn lựa.
TÌNH
HUỐNG và THANH GƯƠM
Kẻ
thù của Chúa Giêsu liền tận
dụng tình huống này. Chúa Giêsu
trao mình mà không hề chống cự
và xin tha cho các đệ tử. Không
có chiến đấu nên không có
nguy hiểm, thế nên một số người
trong đám lính tỏ ra hăng hái,
bước tới và bắt Chúa Giêsu.
Giuđa giữ đủ mức độ yêu
thương và lòng kính trọng dành
cho Thầy để an thân, hắn để
cho người khác hành động. Các
môn đệ ngạc nhiên trước các
sự kiện này. Chưa bao giờ họ thấy
Thầy bị đối xử tồi tệ như
vậy. Những lần trước, khi kẻ thù
tìm cách bắt Ngài, Ngài chỉ
lặng lẽ lánh đi nơi khác, thế
mà bây giờ Thầy lại chịu để
cho chúng bắt. Lúc này họ thấy
Ngài nắm chặt hai bàn tay.
Ngay
trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các
môn đệ xin ý kiến của Thầy
Giêsu để có thể chiến đấu
bằng gươm, vì hai người trong số
họ có gươm, nhưng họ không
hiểu ý Thầy mình. Chiều tối,
Ngài nói với họ: “Khi
Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền,
không bao bị, không giày dép, anh em
có thiếu thốn gì không?”.
Họ đáp: “Thưa
không”.
Ngài bảo họ: “Nhưng
bây giờ, ai có túi tiền thì
hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy;
còn ai chưa có gươm thì bán
áo đi mà mua. Vì Thầy bảo cho
anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản
thân Thầy lời Kinh Thánh đã
chép: Người bị liệt vào hàng
phạm pháp. Thật vậy, những gì
đã chép về Thầy sắp được
hoàn tất”.
Họ thưa với Thầy Giêsu: “Lạy
Chúa, đã có hai thanh gươm đây”.
Ngài bảo: “Đủ
rồi!”
(Lc 22:35–38). Có thể họ nghĩ rằng
đây là cách Chúa Giêsu nói
tới sự cấp bách. Sự mạnh dạn
của họ lớn hơn sự khôn ngoan. Có
gươm giáo trong tay, một số người
trong số họ chờ lệnh của Thầy
Giêsu, sẵn sàng xông vào đám
lính Rôma.
Lúc
đó, hành động nhanh chóng, vì
Chúa Giêsu không còn thời gian để
trả lời họ. Phêrô bộc trực
khi thấy Thầy bị bắt. Ông không
đợi Thầy trả lời, mà liền
vung gươm chém thẳng vào đầu
Man-khô (Malchus), một trong những người
đang bắt giữ Thầy Giêsu.
Sau
khi Phêrô chém đứt tai tên đầy
tớ của thượng tế, Chúa Giêsu
nghiêm giọng: “Hãy
xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả
những ai cầm gươm sẽ chết vì
gươm” (Mt
26:52). Ý nghĩa câu nói không rõ
ràng. Có thể Chúa Giêsu có ý
nói rằng “Cứ để như thế,
không còn bạo lực nữa”, hoặc
là “Cứ để mọi sự diễn
biến; cứ để họ bắt Thầy”.
Trong lúc bị thương, hẳn là
Man-khô buông tay ra, và Chúa Giêsu
liền dùng tay để gắn tai cho hắn.
Nếu Thầy Giêsu không làm phép
lạ chữa lành tai cho Man-khô, hẳn là
Phêrô khó yên thân trong sân
dinh thượng tế tối hôm đó.
Chúa
Giêsu vẫn chủ động. Quay sang Phêrô,
Ngài nói: “Hãy
xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả
những ai cầm gươm sẽ chết vì
gươm”
(Mt 26:52). Ngài không tham dự vào việc
tự vệ bằng bạo động, Ngài
muốn yêu thương.
Bạo
lực sinh ra bạo lực, đổ máu dẫn
đến đổ máu nhiều hơn. Dùng
gươm phải được phép, nếu
không sẽ phạm pháp. Hơn nữa, Chúa
Giêsu không cần họ trợ giúp:
“Anh
tưởng là Thầy không thể kêu
cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp
ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh
thiên thần!”
(Mt 26:53). Một đạo quân có 6.000
người. Thay vì 12 môn đệ yếu
đuối bảo vệ Ngài, Ngài có
thể xin Chúa Cha ban cho mười hai lần
sáu ngàn thiên thần giúp đỡ
Ngài – tức là 12 x 6.000 = 72.000 quân.
Sau
khi nói với Phêrô, Chúa Giêsu
quay sang đám người đến bắt
Ngài. Mặc dù Ngài nói với mọi
người, nhưng Ngài nhắm đến
những kẻ có chức quyền, những kẻ
chịu trách nhiệm về những gì
xảy ra – các thượng tế, những
người coi Đền Thờ, và các
bô lão. Chúa Giêsu đặt vấn
đề: “Tôi
là một tên cướp sao mà các
ông đem gươm giáo gậy gộc
đến? Ngày ngày, tôi ở giữa
các ông trong Đền Thờ, mà các
ông không tra tay bắt. Nhưng đây là
giờ của các ông, là thời của
quyền lực tối tăm”
(Lc 22:52–53).
BẮT
GIỮ
Chúa
Giêsu không phản đối việc bắt
Ngài nhưng phản đối cách thức,
thời gian và nơi chốn mà họ bắt
Ngài. Họ đối xử với Ngài
như thể Ngài là kẻ trộm cướp,
trưởng băng đảng có vũ khí,
hoặc kẻ phạm pháp. Nếu có vấn
đề sự khác nhau về học thuyết,
họ cũng biết rất rõ rằng họ
vẫn thấy Ngài giảng dạy ở Đền
Thờ. Họ có thể bắt Ngài giữa
thanh thiên bạch nhật và đưa Ngài
ra trước hội đường. Chúa
Giêsu biết tại sao họ không làm
vậy – và chính họ cũng biết
điều đó. Họ biết họ kết
tội Chúa Giêsu về những lời Ngài
nói. Họ sợ dân chúng vì tính
thâm độc trong động lực và
sự bất công trong cách đối xử
của họ dành cho Chúa Giêsu.
Nhưng
có ý nghĩa sâu xa về những gì
xảy ra. Họ là những kẻ độc
ác. Do đó hành động của họ
hoàn tất lời tiên tri, như Chúa
Giêsu đã xác định: “Nhưng
thế này là để lời Sách
Thánh được ứng nghiệm”
(Mc 14:49b). Những gì họ làm đều
được Thiên Chúa sử dụng và
ăn khớp với kế hoạch cứu độ.
Lúc
đó, quân dữ có vẻ đã
thắng thế. Chúa Giêsu nói: “Đây
là giờ của các ông, là thời
của quyền lực tối tăm”
(Lc 22:53b). Họ đã nhiều lần muốn
bắt Ngài nhưng không thể bởi vì
giờ của Ngài chưa đến. Bây
giờ là lúc họ có thể tự
do hành động. Satan là hoàng tử
của bóng tối, nó đã nhập
vào Giuđa, kẻ thủ mưu thành công.
Giờ hành động của quân dữ
cũng là giờ của quyền lực tối
tăm, bởi vì họ hành động
với tư cách là liên minh và vũ
khí của Satan.
CÁC
MÔN ĐỆ CHẠY TRỐN
Sau
khi nói với đám quân dữ, Chúa
Giêsu im lặng. Các Thánh sử không
cho biết có sự thảo luận giữa
các môn đệ hay không, về những
gì nên làm hoặc nên nói. Các
Phúc Âm chỉ cho biết cách hành
động của các môn đệ: “Bấy
giờ CÁC MÔN ĐỆ BỎ NGƯỜI
MÀ CHẠY TRỐN HẾT”
(Mt 26:56b).
Chạy
trốn là hèn nhát, đáng xấu
hổ. Họ xa tránh Thầy Giêsu trong lúc
nguy hiểm và bỏ mặc Thầy trong tay kẻ
thù. Tuy nhiên, chúng ta không nên
coi đó là điều khó làm
dịu tính nghiêm khắc về việc kết
tội. Chúa Giêsu đã giải tán
họ và nói: “Nếu
các anh tìm bắt tôi, thì hãy
để cho những người này đi”
(Ga 18:8). Ngài phản đối họ dùng
gươm giáo, vả lại Ngài cũng
không tỏ dấu hiệu bỏ trốn. Họ
phải mau mắn quyết định điều
cần làm, trong khi đó họ vẫn
chăm chú theo dõi Chúa Giêsu, và
họ quyết định chọn cách an toàn
cho bản thân. Khi họ thấy Chúa Giêsu
bị bắt mà không tìm cách thoát
than, họ lẩn vào bóng tối của
những tán cây ô-liu. Điều đó
ứng nghiệm lời tiên tri về lời
nói của Chúa Giêsu: “Ta
sẽ đánh người chăn chiên, và
đàn chiên sẽ tan tác”
(Mt 26:31). Khi đó, Thánh Gioan thấy Thầy
Giêsu đơn độc nên cảm thương:
“Bấy
giờ toán quân và viên chỉ huy
cùng đám thuộc hạ của người
Do Thái bắt Đức Giêsu và trói
Người lại”
(Ga 18:12).
Khi
Chúa Giêsu đã bị trói chặt
và bị quân lính vũ trang vây
quanh, đám quân dữ bắt đầu
dàn hàng tiến về thành phố.
Thánh Gioan cho biết rằng “họ điệu
Chúa Giêsu đến ông Kha-nan, nhạc
phụ của ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm
thượng tế năm đó” (Ga 18:13).
Truyền thống đặt dinh của ông
Kha-nan – có lẽ cũng như dinh của
ông Cai-pha – trên ngọn đồi phía
Tây của thành phố, khoảng 60m tính
từ căn phòng mà Chúa Giêsu đã
ăn Lễ Vượt Qua với các môn
đệ vài giờ trước đó.
THANH
NIÊN CHẠY TRỐN
Đêm
tối, mọi người trong thành phố đã
yên giấc. Chỉ có những lính
canh còn thức bên các bức tường.
Thánh Máccô cho biết rằng các
môn đệ đã bỏ của chạy
lấy người. Trong các Phúc Âm,
chỉ có Máccô thú nhận sự
thật này: “Trong
khi đó có một cậu thanh niên đi
theo Người, mình khoác vỏn vẹn
một tấm vải gai. Họ túm lấy anh.
Anh liền trút tấm vải lại, bỏ
chạy trần truồng”
(Mc 14:51–52).
Thánh
Máccô là người theo Chúa Giêsu
khi còn khá trẻ – chưa tới 20
tuổi. Ông không đi theo xa xa, mà đi
theo trong đám đông. Điều này
cho thấy rằng ông không đi theo vì
tò mò hoặc hiếu kỳ, mà thực
sự quan tâm, thế nên ông trở
thành môn đệ của Chúa Giêsu.
Và rồi ông bị quân dữ tóm
lấy, nhưng ông bỏ ào để
thoát thân, sợ quá nên ông
chẳng ngại gì nữa dù lúc đó
ông “trần như nhộng”.
Trình
thuật Tin Mừng không cho chúng ta biết
tình trạng đó của Máccô
xảy ra trong khi người ta “dẫn độ”
Chúa Giêsu từ Vườn Dầu tới
dinh Kha-nan. It is usually placed immediately after the departure.
Có thể chàng trai trẻ Máccô là
con của chủ nhân căn biệt thự
Ghết-si-ma-ni và thức giấc vì tiếng
la hét ồn ào của đám quân
dữ. Có một truyền thống cho rằng
mẹ của Thánh Máccô là chủ
căn nhà mà Chúa Giêsu và các
môn đệ ăn Bữa Tiệc Ly. Nếu
truyền thống này đúng về vị
trí của Phòng Tiệc Ly và dinh
Kha-nan, hẳn là đám quân dữ dẫn
tù nhân đi ngang qua Phòng Tiệc Ly.
Căn nhà của mẹ Thánh Máccô
là một trong những nơi hội họp
đầu tiên của các Kitô hữu
thời sơ khai. Đó là nơi mà
Thánh Phêrô tới sau khi được
thiên thần giải thoát khỏi nhà
tù (Cv 12:12).
Chứng
cớ chưa đủ thuyết phục, nhưng
có điều nhỏ cho biết rằng chàng
trai trẻ kia chính là Thánh Máccô.
Nếu đúng vậy, chúng ta có thể
hình dung sự kiện đó vẫn sống
động trong trí nhớ. Nếu Thánh
Mátthêu, Thánh Luca và Thánh Gioan
biết điều này, hẳn là họ
đã bỏ qua vì thấy không quan
trọng. Đối với Thánh Máccô,
điều đó giống như một dấu
ấn mà chính ông đã ghi dấu
trong Phúc Âm do ông viết ra, giống
như Thánh Gioan đã nói tới chính
mình bằng cách nói “người
môn đệ Chúa yêu”.
Lm
RALPH GORMAN
TRẦM
THIÊN THU
(chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Chúa
Nhật III Mùa Chay – 2018
|