CHUYẾN
KHỔ
(Chúa
Nhật Lễ Lá – năm B)
CHÉN
CAY, CHUYẾN KHỔ TRIỀN MIÊN
THẦY
GIÊSU VẪN MỘT NIỀM XIN VÂNG
THẬP
HÌNH LÀ DẤU YÊU THƯƠNG
CỨU
NHÂN ĐỘ THẾ KHỎI VÒNG TRẦM
LUÂN
Là
phàm nhân, chẳng ai lại không khổ.
Càng chạy trốn khổ thì càng
thêm khổ: Khờ Ô Khô Hỏi Khổ.
Khổ tới Khô và Khờ luôn, hỏi
mà không ai trả lời được,
chỉ thấy người ta thở dài và
nói: “Khổ
thật! Khố quá! Khổ lắm!”.
Thấy “oải” lắm nghen. Khôn hồn
thì có thể tránh khổ bằng cách
“đi xuyên qua đau khổ”, chứ
diệt khổ cũng chẳng hết, nó còn
vây quanh nhiều hơn đấy. Vâng, biết
rồi, khổ lắm, nói mãi!
Vì
thế, người ta vẩn thường than vắn
thở dài: “Khổ
ải trần gian”
hoặc “Đời
là bể khổ”.
Vâng, “biển khổ” chứ không
phải “sông khổ” hoặc “ao
khổ” đâu. Điều đó cho
thấy kiếp người là chuỗi nối
tiếp đủ thứ khổ, suốt hành
trình ngổn ngang nỗi khổ, một chuyến
khổ đầy ắp, khổ triền miên
suốt ngày thâu đêm. Có lẽ
vì vậy mà không ai cười để
chào đời, mà lại “cất
tiếng khóc chào đời”. Điềm
báo khổ mà! Thế nên phải tự
khổ luyện cách chấp nhận để
khả dĩ phần nào “hóa giải”
đau khổ thành niềm vui, nếu không
thì càng chồng chất thêm đau khổ
mà thôi. Chúa Giêsu gọi đó
là “vác thập giá”.
Trong
các nỗi khổ, có lẽ nỗi oan là
loại gây “khó chịu” đối
với chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu đã
nói với Thánh nữ Faustina thế này:
“Con
đừng ngạc nhiên vì đôi khi
bị tố cáo bất công. Chính Ta đã
từng uống chén đau khổ bất công
này trước vì yêu con” (Nhật
Ký Thánh Faustina, số 289). Nỗi khổ
lớn nhất của chúng ta cũng không
là gì so với nỗi khổ của Thầy
Giêsu.
Từ
hơn hai ngàn năm trước, hoàng tử
Thích Ca Mâu Ni là sống trong cung vàng
điện ngọc, nhưng ông đã “giác
ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh
khổ của kiếp người, thế nên
ông quyết ngồi thiền dưới gốc
bồ đề để tu thân và “tâm
niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là
khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ,
và Tử là khổ. Nói chung, Khổ
là… Khổ. Ông đã siêu
thoát và được người ta tôn
vinh là Đức Phật. Chắc chắn rằng
MUỐN THOÁT ĐAU KHỔ thì chỉ có
cách là ĐI XUYÊN QUA ĐAU KHỔ. Khi
Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành
Giêrusalem, được người ta vừa
cầm lá thiên tuế chào đón
vừa tung hô Ngài là “Đấng
ngự đến nhân danh Chúa”. Thế
nhưng chính giây phút đó lại
là lúc khởi đầu “chuyến
khổ” của Ngài.
KIẾP
KHỔ
Người
có “chuyến khổ” nặng nề
nhất là Đức Giêsu Kitô, mệnh
danh là “người tôi tớ đau
khổ”, điều này đã được
ngôn sứ Isaia đề cập nhiều lần.
Ông cảm thấy Đức Chúa là
Chúa Thượng đã cho ông nói
năng như một người môn đệ,
để ông biết lựa lời nâng đỡ
ai rã rời kiệt sức. Ông xác
nhận: “Sáng
sáng Người đánh thức tôi để
tôi lắng tai nghe như một người môn
đệ”
(Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức
Chúa là Chúa Thượng đã mở
tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng
lại, cũng chẳng tháo lui”
(Is 50:5).
Hiền
không phải là dại khờ hoặc yếu
thế, mà là nhịn nhục và tha
thứ. Ngôn sứ Isaia “không cưỡng
lại” và “không thoái lui”
dù ông phải “đưa lưng cho
người ta đánh đòn, giơ má
cho người ta giật râu” và “không
che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ”
(Is 50:6). Ông tin mình “có Đức
Chúa là Chúa Thượng phù trợ”,
vì thế, ông “không hổ thẹn”
mà cứ “trơ mặt ra như đá”.
Thế nên ông biết mình sẽ “không
phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là
hình ảnh của Đức Kitô, con người
của đau khổ, khởi đầu “hành
trình đau khổ” từ Giêrusalem,
ngay khi được người ta cầm những
cành thiên tuế tung hô là vua.
Nói
về nỗi đau khổ tột cùng, trong
tình trạng chịu nhục nhã ê chề,
Thánh Vịnh gia mô tả:
Thấy
con ai cũng chê cười
Lắc
đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa
mai:
“Nó
trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ
để mặc Người giải cứu nó
đi!”
(Tv 22:8-9)
Thật
thê thảm, thật thống thiết!
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không
chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ
về tinh thần mà còn bị đau khổ
cả về thể lý, trong tình trạng
thật tồi tệ:
Quanh
con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn
ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng
đâm con thủng chân tay
Xương
con đếm được vắn dài, chúng
xem
(Tv 22:17-18)
Không
chỉ như vậy, Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
còn tiếp tục chịu đau khổ đến
tận cùng, thế nhưng vẫn luôn một
lòng trông cậy vào Thiên Chúa
mà thôi:
Áo
mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn
áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa
là sức mạnh con nương
Cứu
mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!
(Tv 22:19-20)
Còn
hơn thế nữa, Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
vẫn không hề dao động, và chỉ
muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính
nỗi đau khổ tột cùng của mình:
Con
nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho
anh em tất cả được hay
Và
trong đại hội dân Ngài
Con
xin dâng tiến một bài tán dương
(Tv 22:23)
Thật
tuyệt vời và đáng khâm phục
biết bao! Dù sao thì Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
luôn trung tín với Thiên Chúa, vừa
tự động viên mình vừa khuyến
khích người khác: “Hỡi
những ai kính sợ Đức Chúa, hãy
ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể
giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn
vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất
cả, nào một dạ khiếp oai!”
(Tv 22:24).
CHỊU
KHỔ
Mang
số kiếp đau khổ thì chẳng tránh
đâu cho thoát, thế thì chịu đựng
cho khỏi “phiền phức”. Đó
là thượng sách. Thánh Phaolô
vừa phân tích vừa xác định:
“Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút
bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như
người trần thế”
(Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người
quyền cao chức trọng có mấy ai dám
“vi hành” để hiểu rõ cảnh
khổ của người dân?
LM
C.P. Varkey có kể lại trong cuốn “Authority:
Its Use and Abuse” (Quyền bính: Sử dụng
và Lạm dụng – NXB The Bombay Saint Paul
Society, 1999) về một số “điểm
son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad
(Ấn Độ), một giám-mục-đa-không,
một tấm gương sáng về tinh thần
phục vụ và dấn thân. Tác giả
Varkey cho biết:
Mỗi
Chúa Nhật, ngài đến một giáo
xứ nào đó mà KHÔNG BÁO
TRƯỚC, ngồi tòa giải tội khoảng
15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy
giáo lý, và chuyện trò với
giáo dân và linh mục quản xứ;
ngài KHÔNG BAO GIỜ cho phép người
ta tổ chức tiếp tân chào mừng
ngài tại các giáo xứ. Và tại
tòa giám mục hay ở bất cứ nơi
đâu mà ngài ghé thăm, ngài
không nhận bất cứ sự biệt đãi
nào dành cho mình; ngài cho rằng sự
hào nhoáng bên ngoài (kiểu như
đoàn xe đưa rước trong những
dịp đặc biệt) KHÔNG PHẢI LÀ
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG mà là chứng
nhân của văn hóa thế tục; hằng
ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ
đến 12 giờ để TIẾP BẤT CỨ
AI đến gặp, KHÔNG cần hẹn trước;
ngài KHÔNG BAO GIỜ nghỉ trưa; ngài
chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu
chức hay khấn dòng NẾU những lễ
ấy tổ chức ở nhà thờ chính
tòa; ngài KHÔNG tổ chức mừng
ngày kỷ niệm thụ phong giám mục
của mình. Năm nào ngài cũng mừng
lễ bổn mạng dịp các linh mục
tĩnh tâm tháng vào ngày 19 tháng
Ba (lễ Đức Thánh Giuse).
Linh
mục đoàn cùng nâng cốc chúc
mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt;
ngài KHÔNG đưa lên bảng thông
tin giáo phận các tin về hoạt động
hay đi lại của ngài trong giáo phận,
mà chỉ thông tin cho mọi người
biết trước về những trường
hợp ngài phải ra ngoài giáo phận
quá một ngày, chẳng hạn khi ngài
sắp đi dự họp Hội Đồng Giám
Mục,...; ngài KHÔNG BAO GIỜ đi nước
ngoài, trừ phi đó là bổn phận
bắt buộc như về Rôma dịp Ad
limina. Ngài KHÔNG BAO GIỜ đi nước
ngoài để quyên tiền. Ngài nói
rằng các nhu cầu căn bản của giáo
phận cần phải được gánh vác
bởi chính giáo dân trong giáo phận;
KHÔNG BAO GIỜ có chuyện “phạt
treo”, chẳng hạn không cấp giấy
chứng chỉ hôn phối vì người
ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn
ĂN MẶC GIẢN DỊ, ĂN CHAY TRƯỜNG,
và chẳng ai thấy hình ảnh của
ngài trên báo chí; ngài hưu
trí tại nhà hưu của các linh
mục cao niên.
Cuộc
đời ngài thật đơn giản, tất
cả đồ đạc xếp gọn trong một
chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài
một ô tô dịp ngài về hưu,
nhưng NGÀI KHÔNG NHẬN, chỉ muốn
được trợ cấp hưu bổng đúng
theo mức hưu dưỡng như các linh mục
khác trong giáo phận; ngài KHÔNG
MUỐN XIN VIỆN TRỢ từ bên ngoài
để xây các nhà thờ to lớn.
Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ
xây một nhà thờ vừa phải với
sự hỗ trợ của chính các giáo
dân địa phương; văn phòng của
ngài là một gian phòng nhỏ trong một
ngôi nhà cũ kỹ, không có bất
cứ món trang trí nào; ngài là
một chứng nhân Tin Mừng, sống điều
ngài rao giảng, cách sống của ngài
cho thấy rõ QUYỀN BÍNH LÀ ĐỂ
PHỤC VỤ.
Là
người Việt Nam, chắc hẳn chúng ta
không thể nào quên tấm gương
sáng về sự quên mình phục vụ
của Đức cố GM Jean Cassaigne (1895–1973,
người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên
giám mục GP Saigon), vị tông đồ
của người cùi ở Di Linh (Đà
Lạt). Ngài cũng đã từng rong ruổi
khắp khu dân cư nghèo để thấy
rõ thực tế, cửa tòa giám mục
cũng luôn rộng mở đón tiếp
mọi người.
Những
chứng nhân sống động như vậy
thật đáng khâm phục, bởi vì
họ đúng là những mục tử
nồng nàn “mùi chiên”, dám
quên mình và xả thân vì đoàn
chiên của Chúa. Họ thực sự là
những Vị Thánh Sống.
“Chiên
Con hiền lành” Giêsu là Con Thiên
Chúa, không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ
mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường:
“Ngài
lại còn hạ mình, vâng lời cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự”
(Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác
thường là “chết trên thập
giá”, loại khổ hình nhục nhã
nhất thời đó. Chính vì Ngài
chịu đau khổ đến tột cùng mà
“Thiên Chúa đã siêu tôn
Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt
trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9),
danh hiệu ấy cao cả và quyền năng
đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh
Giêsu, cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ, muôn vật
phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn
vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở
miệng tuyên xưng rằng: “Đức
Giêsu Kitô là Chúa”
(Pl 2:11). Thật vậy, ngay sau khi hả hê giết
chết Ông Giêsu, viên đại đội
trưởng đã phải sợ hãi và
thốt lên: “Quả
thật, ông này là Con Thiên Chúa,
đích thực là người công
chính!” (Mt
27:54; Mc 15:39; Lc 23:47).
Dù
cho cuộc sống nghèo nàn hoặc rất
ư bình thường, cũng chẳng ai muốn
đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống
sung sướng, muốn tận hưởng niềm
hạnh phúc – tận hưởng bằng
mọi cách và càng nhiều càng
tốt. Vì thế mà CON NGƯỜI KHÔNG
NGỪNG THAO THỨC ĐI TÌM HẠNH PHÚC.
Đau khổ luôn là một ẩn số
đối với cuộc sống, đồng thời
cũng như một hằng số. Những người
chấp nhận đau khổ có thể bị
coi là “ngu xuẩn”, là “dại
dột” hoặc “điên khùng”.
Nhưng chính đau khổ đã tạo
nên các vĩ nhân và các thánh
nhân.
Ở
bất kỳ quốc gia nào, khi bị cáo
đứng trước vành móng ngựa
cũng có luật sư bào chữa. Trong
Giáo hội Công giáo, trước khi
phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”,
một phe đưa ra các điều tốt
và một phe đưa ra các điều
xấu – được gọi là “luật
sư của quỷ”, phe luật sư này
sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi”
cho ứng viên đến khi “chịu thua”
mới thôi. Chẳng hạn trường hợp
của Thánh GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ
đã hết cách nên đành “tố
cáo” rằng Đức Gioan XXIII hồi nhỏ
hay CHƠI DIỀU. Thật là tức cười!
Thế
nhưng khi Chúa Giêsu bị xét xử,
dù không ai thấy Ngài có tội
gì ngoài “tội làm điều
tốt”, không hề có trạng sư
nào bào chữa cho Ngài. Ai cũng tố
cáo, kể cả những người vừa
tung hô Ngài mấy hôm trước. Phúc
Âm theo Thánh sử Mác-cô ghi rõ
rằng vừa tảng sáng, các thượng
tế đã họp bàn với các kỳ
mục và kinh sư, tức là toàn thể
Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ
TRÓI Đức Giêsu lại và giải
đi NỘP cho ông Philatô. Ông Philatô
hỏi Ngài: “Ông
là vua dân Do Thái sao?”
(Mc 15:2a). Chúa Giêsu trả lời: “Đúng
như ngài nói đó”
(Mc 15:2b). “Đúng như ngài nói
đó”, một câu nói đơn
giản mà THÂM THÚY và KHIÊM
NHƯỜNG. Chúa Giêsu không hề tự
nhận là Vua-dân-Do-Thái mà tại
người ta nói vậy. Ngài chỉ tự
nhận” là Con-Số-Không: “Con
chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng
Con Người không có chỗ tựa đầu”
(Mt 8:20; Lc 9:58) và “Tôi
đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC
NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là ĐỂ
PHỤC VỤ, và HIẾN MẠNG SỐNG làm
giá chuộc muôn người”
(Mc 10:45). Vụ án oan sai về Chúa Giêsu
là vụ án bất công và độc
ác nhất lịch sử nhân loại.
Thấy
các thượng tế cấu kết với
nhau để tố cáo nhiều tội, ông
Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông
không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ
tố cáo ông biết bao nhiêu tội!”
(Mc 10:4). Nhưng Ngài làm thinh, KHÔNG TRẢ
LỜI gì nữa, khiến ông Philatô
phải ngạc nhiên. Người hiểu thì
không cần giải thích, người không
hiểu thì giải thích cũng vô ích
mà thôi!
Kinh
Thánh cho biết rằng, vào mỗi dịp
lễ lớn, ông Philatô thường phóng
thích cho dân một người tù, tuỳ
ý họ xin. Khi ấy có tử tù
“khét tiếng” Baraba đang bị giam
với những tên phiến loạn đã
giết người trong một vụ nổi dậy.
Đám đông kéo nhau lên yêu
cầu tổng trấn ban ân xá như
thường lệ. Ông Philatô hỏi: “Các
ông có muốn ta phóng thích cho các
ông vua dân Do Thái không?”
(Mc 10:9).
Chắc
hẳn ông ta thừa biết chỉ vì ghen
tị mà các thượng tế nộp
Ngài. Nhưng các thượng tế xách
động đám đông đòi ông
Philatô phóng thích Baraba. Bị áp
lực mạnh nên ông Philatô lại hỏi:
“Vậy
ta phải xử thế nào với người
mà các ông gọi là vua dân Do
Thái?”.
Họ la lên: “Đóng
đinh nó vào thập giá!”
(Mc 10:13). Ông Philatô muốn tha Chúa Giêsu
vì thấy Ngài vô tội, nhưng ông
ta hèn nhát và sợ mất chức
quyền, ông cù cưa: “Nhưng
ông ấy đã làm điều gì
gian ác?”
(Mc 10:14a). Nhưng đám đông càng
la to: “Đóng
đinh nó vào thập giá!”
(Mc 10:14b). Qua cách xét xử này, chúng
ta thấy rằng KHÔNG PHẢI CỨ ĐA SỐ
LÀ ĐÚNG, thậm chí còn trái
ngược – tức là SAI THẬM TỆ.
Đừng bao giờ vào hùa với người
khác, nhất là trong những chuyện bất
lợi cho tha nhân. Hãy lưu ý vài
cái “đừng” mà Kinh Thánh
đề cập:
1.
“ĐỪNG làm điều xấu thì
cái xấu sẽ không thắng được
con” (Hc 7:1).
2.
“ĐỪNG gieo trên những luống bất
công, kẻo phải gặt bất công gấp
bảy lần” (Hc 7:3).
3.
“ĐỪNG xin Đức Chúa cho con quyền
cao, ĐỪNG xin vua cho con chức trọng”
(Hc 7:4).
4.
“ĐỪNG tưởng mình là công
chính trước mặt Đức Chúa”
(Hc 7:5).
5.
“ĐỪNG để tội nào trói
buộc con đến hai lần, vì một lần
thôi cũng đủ để bị phạt”
(Hc 7:8).
Chỉ
vì muốn được lòng đám
đông, ông Philatô đã phóng
thích tướng cướp Baraba và truyền
đánh đòn Đức Giêsu, rồi
trao Ngài cho họ đóng đinh vào
thập giá. Đám lính điệu
Đức Giêsu vào bên trong dinh tổng
trấn, và tập trung cả cơ đội
lại. Chúng khoác cho Ngài một tấm
áo điều, và kết một vòng
gai làm vương miện đặt lên
đầu Ngài, rồi mỉa mai: “Vạn
tuế đức vua dân Do Thái!”
(Mc 10:18). Chúng lấy cây sậy ĐẬP
lên đầu Ngài, KHẠC NHỔ vào
Ngài. CHẾ GIỄU chán, chúng LỘT
ÁO điều ra, và cho Ngài mặc áo
lại như trước. Vải dính vào
những vết thương sẽ rất đau
đớn khi bị giật áo ra. Cảnh tượng
thật hãi hùng!
Thông
thường, các tử tội được
ân huệ sau cùng, nhưng Chúa Giêsu
không hề được ân huệ cuối
cùng nào, có chăng chỉ là chút
giấm chua. Bị hành hạ đủ kiểu,
thương tích đầy mình, thế mà
Ngài còn phải tự vác thập giá
đi lên đồi. Những kẻ thủ ác
vô cùng bất công và thâm độc,
phàm ngôn không đủ từ ngữ
để diễn tả sự bất nhân như
vậy!
Dọc
đường lên Gôngôtha – nghĩa
là Đồi Sọ, có một người
tên Simôn (gốc Kyrênê, từ miền
quê lên) tình cờ đi ngang qua đó.
Chúng liền bắt ông vác thập giá
đỡ cho Đức Giêsu. Tới nơi,
chúng trao rượu pha mộc dược cho
Ngài, nhưng Ngài không uống. Chúng
đè Ngài xuống và đóng
đinh vào thập giá, rồi đem áo
Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Lúc
chúng đóng đinh Người là
giờ thứ ba (khoảng 9 giờ sáng).
Hôm
đó, có hai tên cướp cùng
bị đóng đinh với Chúa Giêsu
– nghĩa là Ngài bị liệt vào
hạng những tên phạm pháp. Kẻ qua
người lại đều khinh bỉ và
nhục mạ Ngài, có kẻ vừa lắc
đầu vừa nói: “Ê,
mi là kẻ phá Đền Thờ, và
nội trong ba ngày xây lại được,
có giỏi thì xuống khỏi thập giá
mà cứu mình đi!”
(Mc 10:29-30). Các thượng tế và kinh
sư cũng chế giễu Ngài như vậy,
và kháo nhau: “Hắn
cứu được thiên hạ, mà chẳng
cứu nổi mình”.
Rồi họ thách thức: “Ông
Kitô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập
giá ngay bây giờ đi, để chúng
ta thấy và tin”
(Mc 10:31-32). Thậm chí cả một tên
cùng chịu đóng đinh với Ngài
cũng không biết thân mà còn nhục
mạ và thách thức Ngài: “Ông
không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy
tự cứu mình đi, và cứu cả
chúng tôi với!”
(Lc 23:39). Thật tồi tệ, chết đến
nơi không sợ mà còn hống hách!
Bất
ngờ bóng tối bao phủ khắp mặt
đất từ giờ thứ sáu đến
giờ thứ chín (khoảng từ 12 giờ
tới 15 giờ), mặc dù trời đang
nắng chang chang. Một hiện tượng thiên
nhiên bất thường, vô cùng kỳ
lạ! Vào giờ thứ chín, Đức
Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lôi,
Ê-lôi, la-ma-xa-bác-tha-ni!”
– nghĩa là: “Lạy
Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao
Ngài bỏ rơi con?”
(Mc 10:34). Nghe vậy, một vài người
đứng đó liền nói: “Kìa
hắn kêu cứu ông Êlia”.
Có kẻ chạy đi lấy một miếng
bọt biển, thấm đầy giấm, cắm
vào một cây sậy, đưa lên cho
Người uống mà nói: “Để
xem ông Êlia có đến đem hắn
xuống không”.
Sau
đó, Đức Giêsu lại kêu lên
một tiếng lớn, rồi trút hơi thở.
Sự lạ lại xảy ra: Bức màn trướng
trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai
từ trên xuống dưới. Và rồi
chính viên đại đội trưởng
đứng đối diện với Đức
Giêsu, thấy Ngài tắt thở như vậy
cũng phải công nhận Tử Tôi Giêsu
là Con Thiên Chúa. Thế là hoàn
tất “chuyến khổ”. Những người
không muốn tin thì cho đó là
nỗi thất bại ê chề của Đức
Kitô, nhưng họ hoàn toàn lầm
tưởng. Đối với những người
tin Ngài thì đó là Hồng Phúc,
và sẽ được Ngài ban Ơn Cứu
Độ.
Ngày
Thứ Sáu Tuần Thánh, cả Giáo
Hội cùng chịu Đại Tang, đó
là ngày Thế Giới Tang!
Lạy
Thiên Chúa nhân từ, con chân thành
sám hối và xin lỗi Chúa, xin Ngài
thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ
Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân
loại. Phàm nhân tro bụi nhưng thật
diễm phúc vì được tận hưởng
Lòng Thương Xót vô biên nhờ
cái chết cứu độ của Đức
Kitô. Xin giúp con can đảm sống xứng
đáng với Ơn Cứu Độ, kiên
trì đi trọn hành trình đau khổ
và làm chứng nhân của Lòng
Thương Xót của Ngài, để mai
đây con cũng được cùng phục
sinh với Đức Giêsu Kitô. Con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|