Dĩ độc trị độc – Lm.
Giuse Đỗ
Vân Lực
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân
loại, để lại những dấu vết không
đẹp. Nhưng có một con rắn tượng
trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không
đẩy xô con người xuống hố diệt vong.
Đó là con rắn đồng trong sa
mạc. “Ông Môsê đã giương cao con
rắn trong sa mạc,” (Ga 3:14) để “tất
cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn
đó, sẽ được sống.” (Ds 21:9) Con
rắn đã mang một bộ mặt mới kể từ
ngày Thiên Chúa tìm cách cứu con người khỏi hố
diệt vong.
TÌNH YÊU BA CHIỀU
Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã
thiết lập được một tương quan ba
chiều với Chúa Cha, con người và vũ trụ. Người đã phải trả một giá
rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không
thương yêu thế gian tột độ, không bao giờ
có cuộc hi sinh lớn lao đó. Đức Giêsu xứng đáng là một vị
thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn dân. Nhưng Người đã không đến với
tư cách đó. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của
Người đến thế gian, không phải để
lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ
Con của Người mà được cứu
độ.” (Ga 3:17) Sự công chính đã mang
bộ mặt tình yêu. Chính vì tình yêu
đó, Đức Giêsu đã phải hi sinh tới giọt
máu cuối cùng trên thập giá. Đó là
giá rất đắt. Con Thiên Chúa đã phải
trả cho chúng ta.
“Như ông Môsê giương cao con rắn trong
sa mạc, Con Người cũng sẽ phải
được giương cao như vậy, để ai
tin vào Người thì được sống muôn
đời” (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó nhằm lập tương quan thân
ái với nhân loại và vạch ra con đường đi
tới hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường
đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu
treo trên thập giá. Đó là con đường dẫn ta
thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật.
Chính Đức Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16)
Thập giá trở thành trung tâm
trong chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994:
262). Ngước mắt nhìn lên thập
giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu
độ. Bởi vì chính trên cây thập
giá Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự
thật về bản tính mình. “Khi các ông
giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ
biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:28).
Đức Giêsu chính là Đức Chúa và nguồn sống cho
vạn vật và con người. Không tin vào chân lý đó
tức là tự lên án chính mình. “Quả
vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến
thế gian, không phải để lên án thế gian,
nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người, mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Chính cây thập giá sẽ phân nhân loại làm hai
hạng người tin và không tin. Thập giá không
phải là dấu chỉ của án
phạt. Nhưng không tin cái chết của
Đức Giêsu có sức mạnh cứu độ mới
dẫn tới hư vong. “Đức
Giêsu là cơ hội chứ không phải là nguyên nhân” (Fahey
1994:263) của việc phán xét. Cây
thập giá là một biểu tượng cho mọi
người thấy tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt tới
mức nào.
Như vậy cây thập giá
đã chứng tỏ tình yêu riêng của Đức Giêsu (Ga
13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với nhân
loại. Tình yêu là động lực chi
phối toàn bộ sứ mạng Đức Giêsu
dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ đại, vượt quá tầm
hiểu biết. Quả thực, “Thiên Chúa giàu lòng
thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên
dầu chúng ta đã chết vì sa ngã,
Người cũng đã cho chúng ta được cùng
sống với Đức Kitô. Chính do ân
sủng mà anh em được cứu độ” (Ep
2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng
ta trở thành “con cái ánh sáng” (Ep 5:8). Bởi vì
chính Đức Giêsu là “ánh sáng đã đến thế gian.”
(Ga 3:19) Không phải ai cũng đón nhận
được hồng ân cao cả
đó. Thực tế, “người ta đã chuộng bóng
tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều
xấu xa.” (Ga 3:19) Chính việc làm đã tạo thành một
bản án đeo vào cổ họ. Số
phận thật tang thương! Định mệnh
thật khốc liệt!
Nhưng trong quá khứ, ngay lúc
bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện
trọn vẹn giấc mơ. Chỉ một mình Thiên
Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử! Thực vậy, “để lời Đức Chúa
phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn
ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí
Kyrô, vua Ba tư” (Sb 36:22), để vua “ra lệnh phục
hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết
đền thờ” (Fahey 1994:261). Bởi
đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt
đẹp nhất.
TRỜI BỪNG SÁNG
Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho
những ai tin tưởng tuyệt đối nơi
Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song
đôi. Tin là con đường dẫn
tới sự sống. Đức Giêsu đã củng
cố tinh thần những ai run sợ trước
thần chết: “Ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời” (Ga 3:16).
Đức tin vô cùng quan yếu cho con người. Theo Martin
Luther, “đức tin là một thực tại sống và
bởi thế gồm những nhân đức thương
yêu và hi vọng, kinh nghiệm sống hiệp nhất
với Thiên Chúa, và khát vọng sống kết hiệp
với Chúa tới muôn đời” (Cook 1995:512). Chính vì thế, không tin, cuộc sống trở
thành trống rỗng và vô vị.
Khi tin, con người sẽ
thấy mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu
Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta không
những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn
khiến chúng ta tự do yêu thương nhau và bởi đó
đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian (Disciples in
Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ tình
yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống
trong tình yêu là đi trong ánh sáng. Đức Giêsu muốn chúng
ta là “ánh sáng cho trần gian” (Mt 5:14).
Nguồn cung cấp ánh sáng chính là tình yêu, một tình yêu
phải được sự thật giải thoát. Đó
là lý do tại sao Chúa nói “kẻ sống theo
sự thật, thì đến cùng ánh sáng” (Ga 3:21). Đi trong tăm tối trần gian
hay sống dựa trên sự lừa đảo, gian
dối, không thể tìm được nguồn sống và
nguồn sáng đích thực. Do đó cuộc đời mãi
mãi là nô lệ.
Muốn thoát khỏi cảnh nô
lệ lầm than đó, phải “tin tưởng và xác tín
rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu
chúng ta. Tin là phó thác những chương
trình hiện tại và vận mệnh đời
đời nơi Đức Kitô. Tin là
vừa xác tín lời Chúa có thể thực hiện và
cậy dựa vào quyền năng biến đổi
của Người” (Life Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như thế, chúng ta sẽ thay
đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn
và nếp sống. Từ nay không còn gì
xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô biên
của Thiên Chúa. Đức tin giúp ta “bắt
đầu lượng định tất cả sự
việc xảy ra theo nhãn quan vĩnh
cửu” (Life Application Study Bible 1991:1878).
Hơn nữa, tin tưởng
còn có nghĩa là “làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng
trên quyền lực sự dữ trong chúng ta và trên thế
giới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19).
Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu
cực, nhưng luôn thúc đẩy con người đi
tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi
người vào cuộc sống hạnh phúc và đầy
yêu thương của Thiên Chúa. Không có
niềm tin ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha
nhân cho những mục tiêu trần tục. Đó là điều những người vô
thần đã làm. Đứng trước đài
kỉ niệm Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ
hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ
nghĩa Nazis, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Chỉ có chủ
thuyết không có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính
kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối
người như vậy” (VietCatholic 23/3/2000). Những hành động
cuồng điên đó không những phát xuất từ
niềm tin vô thần, nhưng còn là kết quả của
những thất vọng lớn lao. Từ thất vọng đến tuyệt
vọng.
Nhưng “ngay trong những giờ tuyệt
vọng, không phải mọi ánh sáng đều đã
tắt hết đâu” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 23/3/2000). Lý do vì ngay lúc
khốn cùng và nguy hiểm nhất, người tín hữu
vẫn có thể thưa với Chúa: “Con đây vẫn tin
tưởng nơi Ngài, lạy Chúa, con dám thưa rằng:
Ngài là Thượng Đế của con.” (Tv
30:15) Nói lên được điều đó thật là can
đảm. Ngày nay vẫn còn rất nhiều tâm hồn can
đảm như thế nơi những Kitô hữu trên quê
hương Việt Nam.
|