HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT IV
MÙA CHAY B
2 Sb 36,14-16.19-23 ; Ep 2,4-10 ; Ga 3,14-21
AI TIN VÀO CHÚA CON SẼ ĐƯỢC
SỐNG MUÔN ĐỜI
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN
MỪNG: Ga 3,14-21
(14) Khi ấy Đức
Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như
ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa
mạc, Con Người cũng sẽ phải
được giương cao như vậy, (15)
để ai tin vào Người thì được
sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn
đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con
của Người đến thế gian không phải
để lên án thế gian, nhưng là để
thế gian nhờ Con của Người mà
được cứu độ. (18) Ai tin vào
Con của Người thì không bị lên án ;
Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi,
vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên
Chúa. (19) Và đây là bản án: Ánh
sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối
hơn ánh sáng, vì các việc họ làm
đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm
điều ác thì ghét ánh sáng và
không đến cùng ánh sáng, để các
việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Nhưng
kẻ sống theo sự thật, thì đến
cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy
rõ: các việc của người ấy
đã được thực hiện trong Thiên
Chúa.
2. Ý
CHÍNH:
Khi
nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức
Giê-su đã mặc khải về tình
thương cứu độ của Thiên Chúa
như sau:
Để
cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng
tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con
Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai.
Nhờ chấp nhận cái chết đau
thương trên thập giá để đền
tội thay và giao hòa loài người
với Thiên Chúa.
Từ
đây, những ai muốn được ơn
cứu độ phải có mấy điều
kiện sau: Một là phải được
tái sinh bởi Nước và Thánh
Thần. Hai là phải tin Đức Giê-su,
Đấng đã chịu chết trên thập giá
để đền tội thay, mà con rắn
đồng thời Xuất Hành là hình bóng.
Ba là phải vác thập giá mình
hằng ngày mà đi theo Người.
Nhờ
cùng chết với Đấng Thiên Sai, họ cũng
sẽ được ánh sáng của
Người chiếu soi để được
tham phần vào sự sống lại vinh quang
của Người và được
hưởng hạnh phúc đời
đời trên thiên đàng.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 14-15:
+ Ni-cô-đê-mô: Một người vị vọng
trong dân Do Thái, là thành viên của Công Nghị
tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn tìm hiểu về con
người và giáo lý của
Đức Giê-su, nhưng còn với thái độ dè
dặt. Sau này ông đã can đảm bênh
vực Đức Giê-su trong Công Nghị (x. Ga 7,50-52;
12,32). Và khi an táng Người, ông đã can
đảm gia nhập vào hàng ngũ các môn
đệ của Đức Giê-su (x. Ga19,39). +
Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc: Khi
được cứu thoát khỏi ách nô lệ
cho người Ai Cập, dân Do Thái thay vì
biết ơn Chúa và Mô-sê, họ lại kêu ca
trách móc khi phải chịu chút kham khổ. Họ
thà quay lại làm nô lệ cho dân Ai-Cập, miễn
là hằng ngày được ngồi bên
nồi thịt và được ăn uống no
nê, còn hơn được tự do mà
bị đói khát thiếu thốn giữa
nơi sa mạc hoang vu. Chúa đã trừng
phạt họ về thái độ vô ơn bạc
nghĩa ấy. Họ bị rắn lửa bò
ra cắn chết nhiều người. Bấy
giờ họ mới hồi tâm sám hối và
xin ông Mô-sê chuyển cầu Đức Chúa tha
tội. Đức Chúa đã tha và truyền
phải đúc tượng một con rắn
bằng đồng, treo lên cây cột, để ai
bị rắn cắn mà tin vào tình thương
tha thứ của Đức Chúa nhìn lên con rắn
đồng này, thì sẽ được cứu
sống (x. Ds 21,8-9). + Con Người: là
một hình ảnh được ngôn sứ
Đa-ni-en nhìn thấy trong giấc chiêm bao. Con
Người nói đây là một nhân vật
được Đức Chúa tuyển chọn
và trao sứ mệnh cai trị muôn dân trong sự
công minh chính trực (x. Đn 7,13-14). Đức
Giê-su nhiều lần đã tự xưng là Con
Người với ý nghĩa này (x. Mt 8,20; 12,32). +
Cũng sẽ được giương cao như
vậy, để ai tin vào Người thì
được sống muôn đời:
Đức Giê-su đã tiên báo Người
sẽ được nâng lên khỏi mặt
đất, hay bị treo trên cây thập giá, giống
như con rắn đồng thời Mô-sê xưa,
để giao hòa tội nhân với Đức
Chúa và nên dấu chỉ ơn cứu
độ cho loài người. Người
cũng được nâng lên trong vinh quang của Thiên
Chúa, nghĩa là được tôn vinh trong Thiên
Chúa (x. Ga 3,13; 6,62), để kéo mọi tín
hữu lên trời hưởng hạnh phúc
với Người (x. Ga 8,28; 12,32-34).
- C 16-18:
+ Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một: Thánh Gio-an đã khẳng
định nhiều lần: “Thiên Chúa là Tình
Yêu” (1 Ga 4,8). Người thể hiện tình yêu qua
việc ban Con Một yêu dấu cho thế gian. Thế gian
chính là mọi loài thụ tạo,
đặc biệt là loài người.
Sự ban tặng này, gợi lên hình
ảnh tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã vâng
lời Đức Chúa, đem hiến dâng con
trai độc nhất là I-sa-ác để làm
của lễ toàn thiêu tiến dâng Đức
Chúa (St 22,2-13). + Để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời:
Điều kiện để được ơn
cứu độ là phải tin vào
Đức Giê-su - Con Một Thiên Chúa, là
Đấng ban ơn cứu độ cho loài
người. Ơn cứu độ là ơn
tha thứ mọi tội lỗi, xóa bỏ hình
phạt đáng chịu vì tội, và saư này
được sống lại trong ngày tận
thế để được hưởng
hạnh phúc muôn đời trong Nước
Trời với Chúa. + Ai tin vào Con của
Người thì không bị lên án: Tin
ở đây là chấp nhận Đức Giê-su
là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Tin
cũng là vâng nghe lời Người
mời gọi, là từ bỏ mọi
sự mà vác thập giá bước theo
chân Người. Tin đòi ta phải kết
hiệp mật thiết với Đức Giê-su
để sống tình yêu thương đối
với tha nhân, giống như cành nho chỉ
phát sinh hoa trái nếu được tháp
nhập vào thân cây nho và hút được
nhựa sống từ thân cây chuyển sang cho (x. Ga
15,4). NÓI CÁCH KHÁC: Tin là sống trong ơn
nghĩa với Thiên Chúa. Những ai
đặt trọn niềm tin vào Đức
Giê-su như vậy thì không bị kết án
nữa vì họ đã được
Người chịu chết đền tội thay cho
rồi. + Ai không tin thì đã bị luận phạt
rồi vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa:
Không tin là từ chối Chúa, là không
sống trong ơn nghĩa với Chúa. Đây
là những kẻ thù ghét Đức
Giê-su và chống lại Hội Thánh của
Người. Vì kẻ không tin không
được dự phần vào ơn
cứu độ của Đức Giê-su, nên
tội và án phạt của họ vẫn còn
đó. Vì không tuyên xưng Đức Giê-su
là Chúa, nên họ sẽ không được
cứu độ nhờ Danh Người (x. Pl
2,9-11). Như vậy, những kẻ không tin đã
tự loại mình ra khỏi Ơn Cứu
Độ của Đức Giê-su
- C 19-21:
+ Ánh sáng đã
đến thế gian:
Đức Giê-su là “Vầng Đông soi sáng” (x.
Lc 1,78-79 ; 2,32) là “ánh sáng đích
thực” đã đến thế gian và
chiếu soi mọi người (x Ga1,9).
Người đã tự ví mình là
“Ánh Sáng thế gian” để ai theo
Người thì sẽ không đi trong tối
tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự
sống đời đời (x. 9,5). Những
ai tin vào Danh Người thì không phải
chết và không bao giờ bị hư mất (Ga
12,46). + Người ta thích bóng tối hơn
ánh sáng vì các việc họ làm
đều xấu xa: Thánh Phao-lô giải thích
lý do người ta thích bóng tối hơn
ánh sáng là do tội bất phục tùng
của nguyên tổ A-đam nên tội lỗi đã
nhập vào thế gian, và tội là nguyên nhân
dẫn đến sự chết (x. Rm 5,12). Tội
nguyên tổ làm cho con người dễ chiều
theo bóng tối hơn ánh sáng. Thánh Phao-lô
cũng thú nhận như sau: “Muốn sự
thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm
thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không
làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi
lại cứ làm” (Rm 7,18-19). + Ai làm điều
ác thì ghét ánh sáng và không
đến cùng ánh sáng, để các
việc họ làm khỏi bị chê trách:
Bóng tối và ánh sáng luôn xung khắc
nhau. Ánh sáng đi đến đâu thì sẽ
xua tan bóng tối. Người đời
thường ưa thích bóng tối là
các đam mê tội lỗi hơn là ánh
sáng của sự khiêm hạ phục vụ tha nhân.
Họ không chấp nhận ánh sáng là Đức
Giê-su và còn xuyên tạc các việc tốt
Người làm (x. Mt 9,33-34). Họ rình
để bắt lỗi từng lời nói
việc làm của Người để tố
cáo Người (x. Mc 3,2). Cụ thể là
phái Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, đã liên minh
với nhau để tìm cách triệt hạ
Người (x. Mc 3,6). + Kẻ sống theo sự
thật thì đến cùng ánh sáng,
để thiên hạ thấy rõ các việc của
người ấy đã được
thực hiện trong Thiên Chúa: Những
người ăn ở lương thiện và
công minh chính trực, thì dễ dàng tìm
thấy chân lý và sẵn sàng đi theo ánh
sáng soi đường là Đức Giê-su.
Nhờ đó họ sẽ làm
được nhiều việc tốt theo thánh
ý Thiên Chúa.
4. CÂU
HỎI: 1) Hãy cho biết đức tin vào
Đức Giê-su của ông Ni-cô-đê-mô diễn tiến
thế nào? 2) Con rắn trong sa mạc thời
Cựu Ước, liên quan thế nào
với việc Đức Giê-su chịu chết trên
thánh giá thời Tân Ước sau này? 3)
Ngày nay muốn được hưởng
ơn cứu độ do Đức Giê-su thiết
lập, các tín hữu cần những
điều kiện nào? 4) Tin vào Con Thiên Chúa
cụ thể đòi chúng ta phải làm gì?
Tin như vậy ta sẽ được lợi
ích nào? 5) Hình phạt dành cho những
kẻ cố chấp không tin vào Đức Giê-su ra
sao? 6) Đức Giê-su đã mặc khải
Người là ánh sáng thế nào? Tại
sao người đời lại thích bóng
tối hơn ánh sáng do Đức Giê-su mang lại?
7) Ai đi theo ánh sáng của Đức Giê-su
thì sẽ được những ơn ích
gì?
II.SỐNG
LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Như ông Mô-sê đã
giương cao con rắn trong sa mạc, Con
Người cũng sẽ phải được
giương cao như vậy, để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời”(Ga
3,15)
2. CÂU
CHUYỆN:
1. BIỂU TƯỢNG
CỦA TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ:
Các
du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gen-gi-ba
bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón ghi trên cửa
nhà thờ: “Bạn đang đứng trong ngôi nhà của
Đức Ki-tô”.
Ngôi
nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên mảnh
đất trước kia buôn bán những người nô
lệ da đen giống như buôn bán súc vật.
Đặc biệt bàn thờ được đặt
trên một tảng đá là nơi các người nô lệ
bị đánh đòn để kiểm tra về sức
khỏe của họ.
Cây
thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc
cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một
người Anh đã từng lên tiếng chống lại
tệ nạn buôn bán nô lệ. Trên cột trụ này bác
sĩ thường
đứng để cổ vũ giải phóng nô lệ.
Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi
châu mới bị ngăn cấm do một đạo
luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm
giá đích thực của người da đen mới
được nhìn nhận.
Chiếc
cột trụ đã trở nên dấu chỉ, gợi
nhớ đến những hy sinh gian khổ và cả cái
chết để giải phóng những người nô
lệ da đen và giúp họ có được một cuộc
sống tốt đẹp hơn. Đối lại
với thù hận là tình yêu thương chân thật,
đối lại với bóc lột là tự do và công
bằng, đối lại với chiến tranh là hòa
giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta
về tình thương của Thiên Chúa. Thời Xuất Hành,
Đức Chúa đã truyền cho Mô-sê đúc một con
rắn đồng, treo lên một cây cột trong hoang
địa, để những ai bị rắn lửa cắn
sẽ nhìn lên con rắn đồng biểu tượng
của tình thương cứu độ thì sẽ được
chữa lành.
2. TIN VÀO
LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG:
Tại
một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh
giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa
Giêsu vẫn còn đóng vào thập giá, nhưng cánh tay mặt
thì đã rời ra và giơ lên phía trước trong tư
thế như đang ban phép lành.
Người
Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng
thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân
đến xưng tội với vị linh mục đang
ngồi tòa ở dưới cây thánh giá này. Như
thường lệ, mỗi khi giải tội cho một
tội nhân phạm tội nặng, vị linh mục đã
ra việc đền tội nặng và ngăm đe đủ
điều. Nhưng bản tính khó chừa, chẳng bao lâu
sau ông ta lại phạm tội và đến xưng tội.
Lầm này sau khi giải tội, vị linh mục nói
với ông ta: "Đây là lần cuối cùng tôi xá giải
tội này cho anh!"
Nhiều
tháng trôi qua, một hôm tội nhân lại đến quỳ
tại tòa giải tội dưới cây thánh giá để xin
ơn tha thứ. Nhưng lần này, vị linh mục
dứt khoát: "Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi
không thể ban phép giải tội cho anh được nữa!".
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa
khước từ ban ơn tha tội, thì nghe thấy có tiếng
thì thầm từ cây thánh giá phía trên. Ngước nhìn lên ông
thấy cánh tay phải của Chúa Giê-su đã bung ra khỏi
thánh giá và đang ban phép lành cho hối nhân. Rồi vị
linh mục lại nghe thấy tiếng Chúa phán với ông
như sau: "Chính Ta là người đã đổ máu ra
cho tội nhân này chứ không phải ngươi".
Từ đó, bàn tay của Chúa Giê-su luôn
trong tư thế ban phép lành, để mời gọi mọi
người hãy đến xin ơn tha thứ. Du khách
đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm
tưởng như ánh mắt của Chúa đang nhìn mình và nói:
"Ta không kết án con đâu. Hãy về bình an và từ nay
đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11).
3.
CHẾT VÌ NGƯỜI YÊU MỚI LÀ TÌNH YÊU TỘT
ĐỈNH:
Thời
xưa, khi trái đất còn hoang sơ, có một con thỏ
tên là PÔ-LI-XA. Thỏ Pô-li-xa rất thương
người, ai xin gì nó cũng cho và không từ chối một
người nào. Một hôm có một cụ già lom khom
chống gậy tới gần nói rằng:
-
Già đang bị đói lắm, suốt mùa nước
lũ vừa qua, già không có gì ăn cả. Chắc già
sắp chết đến nơi rồi. Giờ đây già
chỉ thèm ăn một miếng thịt thỏ, vậy Pô-li-xa
có cho già được không?
Thỏ
Pô-li-xa nhìn ông già hom hem yếu đuối tội nghiệp
quá, liền bảo ông rằng:
-
Được rồi, ông chờ cháu một lát.
Nói
xong nó chạy kiếm củi xếp thành đống, nhóm lửa
và nói:
-
Ông chờ thịt cháu chín, rồi hãy lấy ra mà ăn.
Sau
đó thỏ nhảy vào đống lửa. Bấy giờ
đống lửa đang cháy to tự nhiên bị tắt
ngúm và ông lão cũng biến mất. Thì ra đó là một
vị thần, được Thượng đế phái tới
để thử lòng tốt của thỏ Pô-li-xa. Về
sau để thưởng công, Thượng Đế
đã cho thỏ Pô-li-xa được sống vui vẻ
hạnh phúc mãi mãi trên mặt trăng.
Đây là một câu chuyện ngụ ngôn
đề cao những ai có lòng nhân ái, sẵn sàng hy sinh chết
cho người khác như Tin Mừng hôm nay đã viết: "Không
có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hi sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).
4. TÌNH
ĐỜI ĐEN BẠC:
Xưa
kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng
có lòng đại lượng. Vua sẵn sàng ban phát vàng
bạc châu báu cho những ai làm cho vua hài lòng. Thế là các nịnh
thần mọc lên như nấm trong triều đình.
Các
hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban
cho ngai vàng nối ngôi. Các quan trong triều thì xu nịnh
để được thăng quan tiến chức. Ai
cũng huênh hoang nói mình hết dạ trung thành, sẵn sàng chịu
chết để bảo vệ nhà vua.
Nhà
vua đã tin vào những lời nịnh hót đó và đã ban
cho họ nhiều vàng bạc khiến ngân khố của triều
đình bị cạn kiệt.
Trong
triều chỉ có quan ngự y là người duy nhất có
lòng trung thực. Ông đã nhiều lần can gián thuyết
phục vua đừng tin vào những lời
đường mật của lũ xu nịnh, nhưng vua
không nghe.
Một
hôm, nhà vua bất ngờ bị lâm trọng bệnh thập
tử nhất sinh, tính mạng chỉ còn được
đếm từng giờ. Quan ngự y tâu trình là bệnh
vua chỉ được chữa lành nếu ăn
được trái tim của một vị hoàng tử con
vua.
Nghe
tin nầy, các hoàng tử trong cung đều trốn
biệt!
Khi
không thể tìm được trái tim của hoàng tử, nhà
vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim
của một người khác được không. Quan
ngự y trả lời ít ra phải dùng trái tim của các
vị quan lớn trong triều đình.
Nghe
tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều
đều trốn biệt tăm.
Túng
quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công
chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa,
cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng
không ai còn lai vãng trong cung điện nữa. Cung
điện thường ngày huyên náo, bây giờ vắng
lặng như bãi tha ma!
Bấy
giờ vua liền ngồi dậy, và đã thấu hiểu
tình người đen bạc.
Chính
quan ngự y đã dựng lên màn kịch nầy để
thử lòng trung thành của mọi người chung quanh!
Cuộc đời là thế! Không ai dám
chết thay cho người mình yêu. Nhưng vẫn có
một người đã dám hy sinh tính mạng cho những kẻ
đã phản bội mình là Chúa Giê-su.
3. SUY
NIỆM:
1) Thiên
Chúa yêu thế gian đã sai Con Một cứu độ:
Từ
lâu, hình ảnh một con rắn cuộn tròn
quanh một cây gậy đã được ngành y
dược thế giới chọn làm biểu
tượng của khoa chữa bệnh cho con
người. Hình ảnh ấy xem ra cũng giống
như con rắn đồng thời Mô-sê,
được treo trên cây cột để chữa
lành những ai bị rắn cắn được
khỏi chết. Tuy nhiên chỉ có Đức Giê-su,
Đấng đã chịu chết treo trên thập
giá, mới thật là linh dược
chữa lành mọi bệnh hoạn thể xác và
linh hồn của chúng ta.
Nói
chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su
đã mặc khải về tình thương
cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời” (Ga 3,16).
2) Sám
hối tội lỗi là điều kiện để
được ơn Chúa cứu độ:
Những
ai muốn được hưởng ơn cứu
độ của Chúa Giê-su cần phải có đủ
điều kiện như sau:
-
Một là phải khiêm tốn nhận mình là tội nhân
để hồi tâm sám hối và chịu phép rửa
tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa.
-
Hai là phải tin Chúa Giê-su, Đấng đã
chịu chết trên thập giá để đền
tội thay cho loài người, mà con rắn
đồng thời Xuất Hành là hình bóng
của Người.
-
Ba là phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
đi con đường hẹp và leo dốc của Người”.
Lòng
tin yêu và sám hối của người trộm lành cùng
chịu đóng đinh với Đức Giê-su chính là
gương mẫu cho sự hồi tâm sám hối của
mỗi người chúng ta hôm nay.
3) Phải
đi theo con đường thập giá của Chúa Giê-su:
Khi
bị mắc bệnh nan y, nếu muốn khỏi
bệnh, bệnh nhân phải đi khám bệnh
để tìm ra nguyên nhân và uống thuốc theo toa
bác sĩ để điều trị bệnh. Bệnh nhân
chỉ được khỏi nếu tin vào thầy
thuốc và uống thuốc theo đúng liều
lượng đã được chỉ dẫn. Rồi
còn phải nghe lời bác sĩ để tránh các nguyên
nhân gây bệnh.
Cũng
vậy, khi phạm tội mà muốn khỏi bị
chết, tội nhân cần tin nhận Đức Giê-su,
đi theo con đường “qua đau khổ vào vinh quang”
của Người, năng nhìn lên Chúa đã bị chết
treo trên thập giá để xin Người tha tội noi
gương người trộm lành (x. Lc 23,40-43). Chắc
chắn chúng ta cũng sẽ nhận được ơn
Chúa tha thứ và sẽ được Chúa cho vào hưởng
hạnh phúc Nước Trời là Thiên Đàng đời
sau.
4) Làm gì để loại trừ thói
hư và nhận được ơn tha tội?:
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại
để biết mình đang sống trong ánh sáng hay trong
bóng tối sự chết? Chúng ta hãy đến bệnh
viện của Chúa là Hội Thánh để kiểm tra
sức khỏe tâm hồn, để được Chúa chữa lành bênh tật và tập
các nhân đức đối lập với các thói hư trong
kinh Cải Tội Bảy Mối có Bảy Đức.
Một
tác giả vô danh đã kể về cuộc kiểm tra
sức khỏe tâm linh của ông ta nơi bệnh viện
của Chúa mà sau đó ông đã được Chúa ban ơn
chữa lành như sau:
- Đầu tiên khi đo huyết áp cho
tôi, bác sĩ Giê-su cho biết tôi bị bệnh thiếu
máu Đức Tin và Đức Bác
Ái. Và khi cặp độ, nhiệt kế báo
hiệu tôi đang bị sốt Ích Kỷ lên tới
40 độ C cần phải cấp thời được
điều trị.
- Ðiện tâm đồ chỉ ra
rằng trái tim của tôi thiếu những rung động
Tình Thương, chứng huyết áp cao do mạch máu
bị tắc nghẽn vì lớp cholesterone Ganh Ghét và
có nguy cơ đột quỵ bất cứ lúc nào.
- Tới khoa xương khớp, tôi
đã tìm ra nguyên nhân tại sao chân tay của tôi thường
bị đau nhức và đi đứng khó khăn, là do Mỡ
Tự Mãn trong máu lên khá cao và chất đạm Axit
Uric do ăn uống thiếu điều độ cũng
tăng gấp đôi mức an toàn, nên bị cục
Gút ở mắt cá chân rất khó đi lại bình
thường. Cũng vì thế mà tôi không thể “Đi
Bước Trước” để mỉm cười
bắt tay người mới gặp hay cố gắng làm
hòa với bà mẹ chồng khó tính thường la
rầy và phê phán tôi với mấy người hàng xóm.
- Chứng cận thị Tham Lam làm mờ mắt khiến tôi
đánh giá tha nhân dựa trên vẻ bề ngoài như nhà
cửa, xe cộ, quần áo… thay vì nhìn vào bản chất và
động cơ ẩn giấu trong tâm hồn họ.
- Do quen nghe những tiếng ồn ào
của quán nhạc Ka-ra-ô-kê nên một bên tai tôi đã bị
Ðiếc
Nặng, không còn nghe được hoặc không còn muốn
nghe những lời tâm sự của những
người bất hạnh.
Tôi
đã được bác sĩ Giê-su tận tình khám bệnh miễn phí với Lòng Thương Xót.
Người đã cho tôi một toa thuốc gồm hai
loại đặc trị là Lời Chúa và Thánh Thể,
đồng thời khuyên tôi thực hành vật lý trị
liệu là Thao Luyện Tâm Linh và thực hành Bác Ái là
năng thăm viếng tha nhân.
Tôi quyết tâm trong Mùa Chay này sẽ
chữa bệnh theo toa thuốc của Chúa như sau:
Mỗi sáng khi vừa thức dậy,
tôi sẽ dùng ngay một ly nước Tạ
Ơn Chúa. Trong bữa
điểm tâm, tôi uống thêm một thìa súp Nụ Cười
Thân Thiện và Chào Hỏi
những người tôi gặp gỡ.
Ở cơ quan làm việc, lợi
dụng các giờ nghỉ giữa giờ, tôi làm các
động tác vật lý trị liệu là Nghĩ Đến
Người Khác và Đáp Ứng Nhu Cầu của
họ. Trong bữa trưa, tôi không quên uống thêm viên
thuốc Nhẫn Nại Chịu Đựng. Buổi
tối về nhà, tôi dành thời gian vận động tay
chân bằng cách giúp người thân làm các việc nhà để
biểu
lộ Tình Thương Cụ Thể. Rồi
trước khi đi ngủ, tôi uống thêm thuốc Sám
Hối Tạ Ơn và Cậy Trông Phó Thác vào Chúa quan
phòng.
4.
THẢO LUẬN: 1) Phân biệt Tội
nặng nhẹ về giống tội, về
mức độ phạm và về hình
phạt? 2) Có khi nào người ta chỉ phạm
bằng lời nói mà vẫn có tội
nặng không? 3) Khi ý thức mình đã
phạm tội nặng, chúng ta cần làm gì noi
gương người phụ nữ tội
lỗi (x Lc 7,47) tông đồ Phê-rô (x Lc 22,61-62), để
sớm được giao hòa với Chúa?
5)
NGUYỆN CẦU:
LẠY
CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã yêu thương chúng
con đến cùng, nên đã ban Lời Chúa
và dạy chúng con phải ăn ở thế
nào để nên con thảo của Chúa Cha, và nên
anh chị em của mọi người. Chúa
cũng ban bí tích Thánh Thể làm
lương thực nuôi dưỡng đức
tin trong cuộc hành trình về Nhà Cha trên trời.
Chúa còn ban chính mạng sống mình,
chịu chết trên thập giá để đền
tội thay cho chúng con. Mỗi lần lỡ sa
ngã phạm tội, xin cho chúng con biết tin thác
vào tình thương của Chúa và nhìn
lên Thánh giá, để xin ơn tha thứ. Trong
những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp
chúng con năng suy niệm chặng đàng
Thánh giá, chăm chỉ đến nhà
thờ suy ngắm mười lăm sự
thương khó, tham dự các buổi tĩnh
tâm Mùa Chay để cảm nghiệm
được tình Chúa yêu thương và
quyết tâm chừa cải các thói hư.
Nhờ đó, hy vọng chúng con sẽ
được biến đổi nên người
mới, thành con yêu của Chúa Cha, nên môn đệ
thực sự của Chúa và nhiệt tình làm việc tông
đồ để xứng đáng được ơn
cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|