NỐT
TÌNH
(Chúa
Nhật IV Mùa Chay, năm B)
“Chỉ
mong con yêu Ngài đến chết, bởi
vì Ngài tự nguyện chết vì yêu
con”
(Thánh Phanxicô Assisi). Một ước muốn
tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng
lại khá nhiêu khê!
Tình
yêu luôn quan trọng trong cuộc sống, cả
đời thường và tâm linh, vì
ai cũng muốn “yêu” và “được
yêu”. Không ai định nghĩa được
tình yêu, vậy có thể ví nó
như cái gì để dễ hiểu?
Người Ấn Độ có cách so sánh
độc đáo: “Tình
yêu giống như một dây leo, nó sẽ
khô héo và chết đi nếu không
có gì để nó quấn quýt”.
Quả thật, cuộc sống không có
tình yêu thì không còn là
cuộc sống nữa. Tình yêu vô hình
nhưng khả dĩ cảm nhận, và nó
là báu vật: “Tình
yêu thương là tài sản quý
giá nhất của con người”
(Ngạn ngữ Ả Rập).
Tông
đồ trẻ Gioan đã được tựa
đầu vào ngực Chúa Giêsu và
được mệnh danh là người-môn-đệ-Chúa-yêu,
ông xác định: “Thiên
Chúa là tình yêu”
(1 Ga 4:8 và 16). Và ông nhấn mạnh:
“Tình
yêu cốt ở điều này: không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên
Chúa, nhưng chính Người đã
yêu thương chúng ta, và sai Con của
Người đến làm của lễ đền
tội cho chúng ta”
(1 Ga 4:10).
Trong
cuộc sống, khi nói đến vấn đề
vô ân bạc nghĩa, người Việt
thường nói: “Khi
vui chẳng nhớ tới ai, đến khi nóng
cứ trái tai mà sờ”.
Cái trái tai cần thiết mà luôn
bị lãng quên. Chúng ta cũng thường
đối xử với Chúa theo kiểu như
vậy. Nhưng Ngài vẫn “làm ngơ”,
coi như không biết, vì tình yêu
thương của Ngài luôn bao la, là
bản trường ca đầy những Nốt
Tình kỳ diệu dệt thành Giai Điệu
Xót Thương tuyệt vời nhất để
chúng ta tận hưởng. Khối Thánh
Tình đó của Ngài được
phát xuất từ Thánh Tâm, Nguồn
Mạch Yêu Thương, và đó cũng
chính là Lòng Thương Xót vô
biên của Ngài.
Hôm
nay, vậy là chúng ta đã đi được
nửa chặng đường của Mùa
Chay. Xin mạn phép nhắc lại một chút
cho dễ hiểu: Chúa Nhật IV Mùa Chay
còn được gọi là Chúa Nhật
Vui (Lætare), với lễ phục màu hồng,
xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày
này (Lætare Jerusalem – Hãy vui lên
hỡi Giêrusalem). Niềm vui này dẫn
chúng ta tới đỉnh Đồi Sọ để
cùng chết với Thầy Chí Thánh.
VÌ
LÀ TỘI NHÂN…
Thánh
Vịnh gia xác định: “Lúc
chào đời con đã vương lầm
lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài
thai”
(Tv 51:7). Đó là “kiếp tội nhân”
của mọi phàm nhân. Tất cả chúng
ta đều là những hạt-bụi-nhỏ-nhoi-và-yếu-hèn,
đều là những tội nhân, ngay cả
những người công chính cũng vẫn
phạm sai lầm mỗi ngày 7 lần (x. Cn
24:16).
Thật
vậy, sách Sử Biên Niên nói:
“Tất
cả các thủ lãnh của các tư
tế và dân chúng mỗi ngày một
thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi
thói ghê tởm của chư dân và
làm cho Nhà Đức Chúa đã
được thánh hiến ở Giêrusalem
ra ô uế”
(2 Sb 36:14). Do đó, Thiên Chúa không
ngừng sai sứ giả của Ngài đến
cảnh cáo, vì Ngài hằng thương
xót dân và thánh điện của
Ngài. Thế nhưng họ nhạo cười
các sứ giả của Thiên Chúa,
khinh thường lời Ngài và chế
giễu các ngôn sứ của Ngài. Dân
Chúa phạm tội tăng theo cấp số
nhân, dân Chúa cũng chính là
chúng ta. Và rồi Thiên Chúa buộc
lòng phải bừng bừng nổi giận mà
trừng phạt dân Ngài đến vô
phương cứu chữa. Nhưng Ngài trách
phạt chúng ta vì yêu thương, vì
thương xót, chứ không vì ghét
bỏ, để chúng ta có thể “sáng
mắt” và giác ngộ mà nhận
ra những sai lầm thái quá của mình.
Chuyện
kể trong sách Sử Biên Niên thế
này: Ngày xưa quân Canđê đốt
Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường
thành Giêrusalem, phóng hoả đốt
các lâu đài trong thành và phá
huỷ mọi đồ đạc quý giá.
Những ai còn sót lại không bị
gươm đâm, thì vua bắt đi đày
ở Babylon; họ trở thành nô lệ
của vua và con cháu vua, cho đến thời
vương quốc Ba Tư ngự trị. Theo “luật
nhân quả” thì “gieo gì gặt
nấy”, và chúng ta cũng thường
nói: “Gieo
gió thì gặt bão”.
Hình phạt là hậu quả từ sự
ngang ngược của chúng ta: Lỗi tại
tôi mọi đàng – một hệ lụy
tất yếu!
Chỉ
vì to gan, lớn mật, coi trời bằng nắp
bia, dám phạm tội phản nghịch Thiên
Chúa mà dân chúng phải đi đày.
Khổ nên buồn, buồn nên nhớ quê
hương, thế nên dân chúng than thở
thảm thiết: “Bờ
sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà
tưởng nhớ Sion; trên những cành
dương liễu, ta tạm gác cây đàn”
(Tv 137:1-2). Mỗi người trong chúng ta cũng
đã bao lần tự cắt mối dây
liên lạc với Chúa vì phạm tội,
đến lúc ở “bước đường
cùng” rồi thì chúng ta chỉ còn
biết năn nỉ ỉ ôi: “Xin
Chúa thương xót chúng con”.
Lời cầu nguyện này không chỉ
được chúng ta đấm ngực và
kêu xin trong thánh lễ hằng ngày mà
còn nhiều lần khác trong ngày. Rõ
ràng “cứ trái tai mà sờ”.
Thật tồi tệ, thế nhưng lại là
tốt, bởi vì Thiên Chúa tươi
cười khi thấy chúng ta biết sám
hối!
Cây
muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
Đã khổ sở vì lòng ray rứt,
dân chúng còn bị bọn lính canh
“khiêu khích” để chạm vào
vết thương lòng đang sưng tấy:
“Hát
đi, hát thử đi xem! Sion nhạc thánh
điệu quen một bài!”
(Tv 137:3). Ui da, vần thơ lục bát êm
đềm thế mà sao nhức buốt quá!
Đúng là “người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ”. Buồn não
lòng như vậy thì còn đâu
hứng khởi mà hát xướng, dù
là bài ca kính Chúa Trời? Và
rồi lòng lại dặn lòng: “Giêrusalem
hỡi, lòng này nếu quên ngươi,
thì tay gảy đàn thành tê bại!
Lưỡi xướng ca sẽ dính với
hàm, nếu ta không hoài niệm, không
còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt
đỉnh của tâm hồn”
(Tv 137:5-6). Con cái chẳng bao giờ rời khỏi
cha mẹ, chúng ta cũng chẳng bao giờ
thoát khỏi Thiên Chúa. Chắc chắn
như thế!
…NÊN
CẦN TÌNH CHÚA
Thiên
Chúa là
Đấng THẤU SUỐT
mọi sự (1
Sbn 28:9b;
Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb
15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23;
Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1
Cr 2:10; 1
Cr 12:4-6; 1
Ga 3:20),
Ngài
biết rõ chúng ta đau khổ vì đã
chống lại Ngài, nhưng Ngài vẫn
“làm như không hay biết” vì
muốn chúng ta tự nhận thức và
sám hối thật lòng. Chừng nào
chúng ta “đầu hàng vô điều
kiện” thì Ngài sẽ ra tay ngay. Thánh
Phaolô trần tình: “Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và
rất mực yêu mến chúng ta, nên
dầu chúng ta đã chết vì sa ngã,
Ngài cũng đã cho chúng ta được
cùng sống với Đức Kitô” (Ep
2:4-5). Ôi, chúng ta thực sự hạnh phúc
vô cùng, nhưng đừng ảo tưởng
mà cho rằng Thiên Chúa “phải”
yêu thương chúng ta. Ngài yêu
thương chúng ta vì thương xót
chúng ta, “chính do ân sủng mà
chúng ta được cứu độ”
(Ep 2:5), chứ chúng ta chẳng là gì
mà Ngài phải bận tâm!
Tất
cả là hồng ân. Ngài không chỉ
cứu độ chúng ta mà còn “cho
chúng ta được cùng sống lại
và cùng ngự trị với Đức
Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep
2:6). Ngài tỏ lòng nhân hậu đối
với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu,
để biểu lộ cho các thế hệ
mai sau thấy ân sủng dồi dào và
phong phú của Ngài. Thánh Phaolô tái
xác định: “Chính
do ân sủng và nhờ lòng tin mà
anh em được cứu độ: đây
không phải bởi sức anh em, mà là
một ân huệ của Thiên Chúa, cũng
không phải bởi việc anh em làm, để
không ai có thể hãnh diện”
(Ep 2:8-9). Quả thật, chúng ta không hề
có mảy may gì để mà hãnh
diện!
Đó
là điều vừa mặc nhiên vừa
minh nhiên, bởi vì “chúng ta là
tác phẩm của Thiên Chúa, được
dựng nên trong Đức Kitô Giêsu”,
và chúng ta có trách nhiệm “sống
mà thực hiện công trình tốt đẹp
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng
ta” (Ep 2:10). Đó là sự công
bình hoàn toàn hợp lý!
Qua
sách Dân số, chúng ta biết rằng,
từ núi Horép, dân Chúa lên
đường theo đường Biển Sậy
(Sea of Reeds, còn gọi Biển Đỏ –
Red Sea), vòng qua lãnh thổ Êđôm,
trong cuộc hành trình qua sa mạc, với
lương thực duy nhất là “món”
mana, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn nên
kêu trách Chúa và ông Môsê:
“Tại
sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất
Ai Cập, để chúng tôi chết trong
sa mạc, một nơi chẳng có bánh
ăn, chẳng có nước uống? Chúng
tôi đã chán ngấy thứ đồ
ăn vô vị này!”
(Ds 21:5). Thiên Chúa cho rắn độc ra
cắn khiến nhiều người chết. Thấy
vậy, dân chúng hoảng sợ quá nên
đành phải cầu xin ông Môsê:
“Chúng
tôi đã phạm tội, vì đã
kêu trách Đức Chúa và kêu
trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức
Chúa để Người xua đuổi rắn
xa chúng tôi”
(Ds 21:7). Ông Môsê cầu nguyện, và
Thiên Chúa “mủi lòng” nên
bảo ông đúc một con rắn bằng
đồng, đem treo lên cây cột, và
“hễ ai bị rắn cắn mà NHÌN
lên con rắn đồng thì ĐƯỢC
CỨU SỐNG” (Ds 21:9).
Biểu
tượng ơn cứu độ thời Cựu
Ước là “con rắn đồng treo
trên cây cột trong sa mạc”, biểu
tượng ơn cứu độ thời Tân
Ước là “Đức Kitô bị
treo trên Thập giá”, để “ai
tin vào Ngài thì được sống
muôn đời” (Ga 3:15). Lời hứa đó
là niềm hy vọng chắc chắn đối
với chúng ta, nhưng tất cả đều
là hồng ân, và nhờ Lòng Chúa
Thương Xót. Thật vậy, Thiên Chúa
không hề tiếc chúng ta điều gì:
“Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời”
(Ga 3:16).
Ôi,
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
quá đỗi lớn lao, ngoài sức tưởng
tượng của nhân loại: “Thiên
Chúa sai Con của Người đến thế
gian, không phải để lên án thế
gian, nhưng là để thế gian, nhờ
Con của Người, mà được cứu
độ”
(Ga 3:17). Thiên Chúa công minh chính trực
(Dcr
9:9b; Hc
5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14;
Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không
thiên tư tây vị bất kỳ ai, không
“ưu tiên” người “có
thế giá”, cũng chẳng “chèn
ép” người cô thân – dù
là người cùng đinh nhất thế
gian: “Ai
tin vào Con của Người thì không
bị lên án; nhưng kẻ không tin thì
bị lên án rồi, vì đã
không tin vào danh của Con Một Thiên
Chúa”
(Ga 3:18). Đó là sự công bằng –
vừa minh nhiên vừa mặc nhiên.
Đâu
là nguyên nhân của bản án? Rất
đơn giản: “Ánh
sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối
hơn ánh sáng, vì các việc họ
làm đều xấu xa”
(Ga 3:19). Thiên Chúa giải thích: “Ai
làm điều ác thì ghét ánh
sáng và không đến cùng ánh
sáng, để các việc họ làm
khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống
theo sự thật thì đến cùng ánh
sáng, để thiên hạ thấy rõ:
các việc của người ấy đã
được thực hiện trong Thiên Chúa”
(Ga 3:20-21). Rất rõ ràng, rất rạch
ròi!
Còn
chúng ta? Trách nhiệm của chúng ta
là gì? Đó là “thực hiện
công trình tốt đẹp Thiên Chúa
đã chuẩn bị cho chúng ta”, nếu
ai hoàn thành tốt thì “việc
của người ấy đã được
thực hiện trong Thiên Chúa”. Một
hệ lụy rất lô-gíc và quá
tuyệt vời! Nếu vậy, mỗi chúng ta
sẽ trở thành một “nốt tình”
trong bản tổng phổ của bài “Trường
ca Lòng Chúa Thương Xót”.
Tuy
nhiên, Thánh Phêrô cảnh báo:
“Anh
em hãy sống tiết độ và tỉnh
thức, vì ma quỷ, thù địch của
anh em, như sư tử gầm thét, rảo
quanh tìm mồi cắn xé”
(1 Pr 5:8). Ma quỷ rất tinh quái, đủ
mánh khóe để đưa chúng ta
vào tròng, thế nên phải luôn
cảnh giác như Thánh Têrêsa Hài
Đồng: “Ma
quỷ thường hay đánh lừa những
linh hồn quảng đại bằng cách thúc
đẩy họ bước vào những hy
sinh thái quá, vừa làm hại sức
khỏe vừa khiến họ không thể chu
toàn bổn phận, đồng thời lại
lấy đó làm tự mãn”.
Đáng sợ là nó làm cho chúng
ta cảm thấy mình đạo đức, vì
thế mà kiêu ngạo và khinh người
khác.
Ba
thù rất đáng quan ngại, mỗi loại
có “chiêu” riêng, vì thế
mà phải ăn chay để khuất phục
chúng. Chịu khó ăn chay một chút
nhưng được nhiều ích lợi.
Thánh GM TS Augustinô cho biết: “Ăn
chay tẩy sạch linh hồn, nâng cao tâm
trí và thể lý, làm cho tâm
hồn khiêm nhường và hối hận,
phá tan những ham muốn trần tục, kiềm
chế nhục dục, và thắp sáng lửa
tinh tuyền. Hãy đi vào nội tâm
của chính mình”.
Cố vượt qua chính mình và phải
cậy nhờ vào Đấng toàn năng:
“LẠY CHÚA TRỜI, XIN TỚI GIÚP
CON! – DEUS, IN ADJUTORIUM MEUM INTENDE ! – O GOD, COME
TO MY ASSISTANCE !”.
Dù
ở vào hoàn cảnh nào thì cũng
“đừng sợ!”, bởi vì chúng
ta luôn có Chúa Giêsu đồng hành
và cùng chiến đấu với chúng
ta. Tưởng cũng cần biết điều
thú vị này: Thành
ngữ “đừng sợ” được
đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với
các sắc thái khác nhau. Như vậy,
trong suốt cả năm, mỗi ngày chúng
ta đều được Thiên Chúa động
viên trong các trường hợp khác
nhau với mệnh lệnh: “ĐỪNG
SỢ!”.
Tạ ơn Chúa!
Lạy
Thiên Chúa, còn biết bao người
chịu đau khổ đủ cách và đủ
mức ở khắp nơi trên thế giới
này, xin Ngài thêm sức và cứu
thoát họ. Thưa Ngài, con là kẻ
bạc tình bạc nghĩa – với Ngài
và với tha nhân, chỉ lo ngoại tại
mà quên nội tại, nói nhiều mà
chẳng làm được bao nhiêu, xin Ngài
đại lượng tha thứ. Xin ban ánh
sáng Thánh Linh để thức tỉnh
lòng con và giúp con biết sống khiêm
nhường để có thể thực sự
trở nên lợi khí của Ngài. Con
cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
+
Suy tư với
VẾT
MÒN
: https://www.youtube.com/watch?time_continue=16&v=0084qXu0S-M
|