Điên rồ cho Thiên Chúa
(Peter Feldmeier – Lm.
GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Chúng tôi rao giảng
Đức Kitô chịu đóng đinh” (1Cr 1,23)
Tin Mừng
quả là điên rồ, nhưng điên rồ như
thế nào? Bài đọc phụng vụ hôm nay trích trong
thơ thứ nhất Thánh Phaolô tông đồ gửi cho
giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết: “Trong khi người Do Thái
đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn
người Hy Lạp kiếm tìm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi
lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh,
điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể
chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ ( 1Cor
1,22).
Vậy,
phải chăng Tin mừng thật điên rồ, thật
vô lý, và dẫn con người đi vào lầm lạc?
Sự khôn ngoan mà con người thường hay đề
cao có thực sự phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,
là tấm gương phản ánh hoạt động
của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Chúa (Kn
7,26) hay không?
Chắc
chắn, Thánh Phaolô muốn khẳng định rằng,
sự khôn ngoan theo quy chuẩn xã hội loài người
sẽ bị cáo chung bởi Tin mừng. Tin mừng
đưa dẫn chúng ta tiếp cận sự khôn ngoan không
theo dạng thức mà thế gian vẫn hướng
về. Cũng trong lá thư này, Thánh Phaolô đã nhắc các
độc giả, để giúp họ biện phân đâu
là sự khôn ngoan đích thực. “ Khi anh em được
Chúa kêu gọi, trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan
trước mặt người đời, đâu có
mấy người quyền thế, mấy người
quý phái. Song, những gì thế gian cho là điên dại, thì
Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những
kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì
Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những
kẻ hùng mạnh…(1,26-27). Sự xét định theo tiêu chí
của thế gian không phải là đường lối
của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã tóm kết nghịch
lý này, khác với suy nghĩ bình thường của xã
hội loài người, khi Ngài tuyên bố “ Phúc cho những
ai sống tinh thần nghèo khó ” và “Những ai tìm mạng
sống mình, sẽ mất nó. Ai liều mất mạng mình
vì tôi, sẽ tìm được chính mạng sống ấy
(Mt 5,3; 10,39).
Đức Giêsu
không phải là người hùa chạy theo đám đông,
hay dễ theo xu hướng của cộng đồng xã
hội. Thay vì rập theo não trạng chung của dân chúng,
Ngài lại tuyên bố những điều hoàn toàn trái
ngược. Chúng ta cũng thấy điều tương
tự trong trình thuật Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu
lên Giêrusalem, Ngài thấy trong đền thờ có một khu
vực người ta đang bán bê, chiên, bồ câu, và có
những người đổi tiền ngồi đó.
Đức Giêsu mạnh tay xua đuổi họ ra ngoài, và
còn lật tung những bàn đổi tiền, khiến
tiền bạc đổ vãi tung tóe. Ngài truyền lệnh
đem tất cả thứ đó ra khỏi đền
thờ, “ Đừng biến nhà Cha ta thành nơi bán buôn”.
Việc mua bán
trong khu vực đền thờ hồi xưa, không bị
coi là một sự phạm thánh. Thậm chí, người Do
Thái còn xem đó là một việc đạo đức
tốt lành. Khách hành hương thường mua những
lễ vật để tiến dâng cho Chúa. Điều này
chẳng có gì xấu. Vả lại việc mua bán này
chỉ diễn ra tại khu vực tiền sảnh bên ngoài
đền thờ, là những chỗ mà ngay cả dân
ngoại vẫn có thể lui tới. Khách hành hương
đến đền thờ cần có lễ vật, và những
người buôn bán giúp họ thực thi bổn phận tôn
giáo rất chính đáng. Có lẽ, vì luật Do Thái cấm
tôn thờ ngẫu tượng, nhưng việc buôn bán giao
dịch lại phải dùng tiền Rôma có in hình Xêda, hoàng
đế của đế quốc, nên phải chăng vì
thế mà Đức Giêsu đã phản ứng gay gắt ?
Có phải thế không? Chúng ta sẽ từ từ tìm ra câu
trả lời, và khám phá ra ý nghĩa sâu xa của câu
chuyện nêu trên.
Đối
với dân Israel, đền thờ là chốn linh thiêng nhất,
biểu thị cho việc Thiên Chúa luôn hiện diện
giữa dân Ngài. Tác giả Thánh vịnh đã viết “
Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được
ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt
cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt
vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng (Tv 27,4).
Tin mừng thuật lại, sau này các học trò của
Đức Giêsu nhìn vào hành động của Ngài trong
đền thờ Giêrusalem
như một hành vi tiên tri, diễn bày niềm tin sâu
xa mà tác giả thánh vịnh đã miêu tả: “Vì nhiệt tâm
lo cho nhà Chúa, mà con đã chịu thiệt thân (Tv 69,4)”. Đi
sâu vào ý nghĩa của biến cố, chúng ta mới có
thể nhận ra rằng, những quy chuẩn theo não
trạng con người dễ làm cho chúng ta trở nên mù
tối trước những thực tại thánh thiêng. Chúng
ta cần phân định đâu là những gì hợp pháp
mang tính phàm tục, và đâu là những gì thuộc phạm
trù linh thánh.
Khi những
vị đầu mục Do thái giáo cai quản đền
thờ tra vấn Đức Giêsu, đòi Ngài phải minh
chứng bằng một dấu chỉ cho thấy Ngài có quyền
hành xử như vậy, Đức Giêsu một lần
nữa lại tuyên bố sự cáo chung của những quy
chuẩn khôn ngoan theo não trạng con người. Ngài nói”
Cứ phá hủy đền thờ này đi, sau ba ngày ta
sẽ xây lại”. Họ chỉ biết nghĩ về
một ngôi đền thờ bằng gỗ, bằng
đá, nhưng Đức Giêsu nói về ngôi đền thờ
khác, là chính thân xác Ngài. Sự sống lại của Ngài là
dấu ấn chung cuộc, khải thị cho thế
giới về những gì Ngài đã nói, đã hành xử.
Ngài muốn nói về sự khôn ngoan đích thực cho
thế giới hôm nay, một thế giới trong đó
người ta vẫn nghĩ tưởng rằng cái
chết là dấu chấm hết cuối cùng. Đức
Giêsu chính là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa, và sự
hiện diện của Ngài diễn bày cho chúng ta chân lý này.
Tất cả
những điều đó bị coi là ngu xuẩn
đối với họ. Những luật lệ theo quy
ước và não trạng hạn hẹp đã khiến
họ trở nên mù tối trước chân trời rộng
mở của chân lý vĩnh hằng.
Tin mừng không
phải là những gì xuẩn ngốc hay ngu dại. Tuy
nhiên, sống giữa một thế giới đầy
sợ hãi, khi con người thường hay sống
cố thủ và tự mãn, người ta vẫn nghĩ
tưởng Tin mừng là như thế. Lá thư mục
vụ của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ
vừa qua nói về vấn đề hòa bình đã bị
quần chúng công kích mạnh mẽ. Người ta cho
rằng Giáo hội quá ấu trĩ và không đi sát với
những trào lưu chính trị của thế giới. Lá
thư nêu bật giáo huấn về sự phân bổ
của cải sao cho công bằng và hợp lý, đồng
thời phải phân phối những tiện ích xã hội
để phục vụ đồng đều cho hết
mọi người. Chế độ tư bản,
khuyến khích người ta làm giàu, khuyến khích quyền
tư hữu một cách ích kỷ, mà không lo cho thiện ích
chung, là một chế độ đáng bị lên án và
cần phải loại trừ. Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô đệ nhị và cả Đức Thánh Cha
Bênêđictô đều nhấn mạnh về giáo huấn
này. Lệnh truyền của Thiên Chúa là phải chăm lo
cho sự sống nội tại nơi từng mỗi con
người. Nhưng điều này dường như con
người xã hội hiện nay vẫn không chấp
nhận. Người Công giáo từ lâu đã cố gắng
hòa nhập với xã hội, nhưng có một nguy hiểm
to lớn là chúng ta dễ bị chao đảo về
đức tin, hoặc đức tin trở nên suy yếu,
khi chúng ta đang từ từ bị xã hội đồng
hóa, bị thỏa hiệp và chúng ta không dám can đảm
nêu bật căn tính của mình.
Chúng ta có dám can
trường sống đức tin, phần nào có vẽ
như “điên rồ” trong cái nhìn của thế
giới ngày hôm nay hay không?
|