Đức Giêsu
chữa một người phong hủi
(Lm. FX. Vũ
Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tác
giả đã đặt câu truyện này vào thời gian
Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ
biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh
với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4;
Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng.
Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học
của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện
cuối cùng này của ch. 1, hành động quyền lực
của Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh
cao nhất, vì Người chữa lành được
bệnh phong hủi.
2.- Bố cục
Bản văn
này có ba phần:
1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);
2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc.
43-44);
3) Biến cố được phổ biến và
hậu quả (c. 45).
3.- Vài điểm chú
giải
- người
bị phong hủi
(40): Sách Lêvi đã nói đến chứng bệnh này trong ch.
13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng
là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì
thế, người ta không nói “chữa lành” nhưng là “được
thanh tẩy (làm cho sạch)” khỏi bệnh phong hủi.
Ta hiểu được một lối chơi chữ trên
hai từ Híp-ri nâga’ (“nó
đánh”) và nega’ (“đòn
đánh”; “vết phong hủi”; “người mắc bệnh
phong hủi”) (x. 2 V 15,5; 2 Sb 26,19-20; Is
53,4.8).
Người tôi
tớ của Đức Chúa được mô tả
như người phong hủi (Is 53,3-5).
Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người
đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8).
Vị ngôn sứ không phủ nhận nguyên nhân
là tội, nhưng đây là tội của dân.
Từ đó, ta
hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi
được dành cho các tư tế: các vị là những
nhà chuyên môn phân biệt được các dạng bệnh,
và chỉ các vị mới đưa người đã lành
bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng
nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19;
Đnl 24,8).
Tuy
nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là
chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì
cũng giống như gọi một người chết
về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có ban quyền
chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như
Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-14). Vậy,
người ta còn có thể chờ đợi ai chữa
bệnh phong hủi trong tương lai, nếu không
phải là chờ đợi Đấng Mêsia (x. Mt 11,5)?
- Người chạnh
lòng thương
(41) (HL. splanchnistheis, partic.
aorist của động từ splanchnizomai do từ ta splanchna,
lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển
động trong lòng”.
- giơ
tay đụng vào anh:
Hành vi này là tiêu biểu của một cuộc chữa lành
bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi phạm quy định của luật
lệ Do Thái liên hệ đến sự trong sạch,
nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.
- Người nghiêm
giọng (“làm
gắt”, NTT) (43): Động từ Hy Lạp embrimaomai, “khịt khịt”
(ngựa); “phát tiếng hừ hừ do cơn giận
dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu
cho hiểu rằng Người vừa làm một việc
ngoại lệ là chữa bệnh công khai, ngược
lại với quyết định của Người.
Do đó, Người “đuổi” anh này đi ngay
để người ta đừng hiểu sai sứ
mạng của Người. Động từ embrimaomai không có từ
tương đương trong ngôn ngữ Tây phương
(TOB: s’irritant; BJ: en le rudoyant; NAB:
warning him sternly; Mann: sent him
away with the stern warning).
- để
làm chứng cho người ta biết (“để làm chứng
trước mặt họ”, NTT) (44): Có những
người cho rằng câu này nhắm đến dân chúng
(chẳng hạn, cha Lagrange: “pour l’attester au peuple”). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản
văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo
người phong đến trình diện tư tế và
nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của
bản văn, đại danh từ quy về các tư
tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số
nhiều được giải thích là: việc làm
chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế
chứng thực, để đến với toàn giai
cấp tư tế. Như thế, Đức Giêsu đã
giao cho anh này một sứ mạng phải thực hiện
nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc
chữa lành người phong hủi là một dấu
chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến
họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn lệnh
truyền về bí mật thiên sai.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Chữa lành
người phong hủi (40-42)
Với bài
tường thuật Đức Giêsu chữa người
phong hủi để kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu
tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong
được người Do Thái coi như là một
chứng bênh đặc biệt trầm trọng.
Lời khẩn cầu của người bệnh
chứng tỏ một niềm tin tưởng phi
thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi
được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý
muốn của Đức Giêsu một quyền lực to
lớn. Lời khẩn cầu này
cũng vừa là một thách đố vừa chứng
tỏ lối xử sự trước đây của
Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức
tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức
Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần
Người muốn một điều là điều ấy
được thực hiện. Người
phong hủi được chữa lành tức khắc.
* Lệnh cấm nói và
trình diện tư tế (43-44)
Đức
Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư
tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành
và để cho kẻ trước đây bị loại trừ
nay được chấp nhận vào lại trong cộng
đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào
nền phụng tự của anh em mình. Đức Giêsu
từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và
cấm người đã khỏi bệnh nói về
chuyện mình được chữa khỏi.
* Biến cố
được phổ biến và hậu quả (45)
Tuy nhiên, anh này
không tuân theo lệnh của Đức
Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã
xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Đức
Giêsu càng lan rộng hơn nữa và
tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào
Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến
với Người. Thật ra, các hành vi
quyền lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa
tối hậu nơi sự kiện là có người
bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của
các hành vi đó là cho thấy rõ ràng
quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng
Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần,
để mọi người có thể tin vào Người.
+ Kết luận
Chữa
bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho
thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về
Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể
của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con
người. Tuy nhiên, ơn cứu độ Người
hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi
nhân, trái lại được gửi đến cho
trọn vẹn con người. Thiên Chúa đã làm
điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có
một trái tim biết thương
cảm.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như
người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta
được lưu ý: không ép buộc Thiên Chúa luôn luôn
phải sẵn sàng trợ giúp chúng ta và theo
cách chúng ta quy định. Chúng ta cứ bày tỏ với
Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi
để Ngài định liệu:”Nếu Ngài muốn”.
2. “Người
phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời khuyên rất
tốt về cách cầu nguyện. Anh không
nghi ngờ ý muốn của Chúa, y như thể anh không
muốn tin vào sự tốt lành của Người.
Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh tẩy anh,
anh khẳng định quyền lực ấy thuộc
về Chúa, đồng thời khẳng định
đức tin của anh… Nếu đức
tin yếu, đức tin trước tiên phải
được củng cố. Chỉ
khi đó đức tin mới cho thấy tất cả
quyền lực của mình là đạt được
việc chữa lành tâm hồn và than xác.
Có lẽ Tông
Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi
bảo: “Người đã dùng đức tin để
thanh tẩy lòng họ” (Cv 15,9)…
Đức tin tinh tuyền, được sống trong tình
yêu, được duy trì nhờ sự nhẫn nại, kiên
nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách
khẳng định mình, cương quyết trong niềm
tin tưởng, đầy trọng kính trong lời cầu
nguyện và đầy khôn ngoan trong những gì cầu xin,
đức tin này chắc chắn trong mọi hoàn cảnh
được nghe lời này của Chúa: ‘Tôi muốn’”
(Thánh Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển
đức).
3. Chúng ta
học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc
phục vụ. Như Đức Giêsu,
người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì
lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng
của anh chị em mình, chứ không phải để
chứng tỏ bản thân. Người
Kitô hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không
phải vì thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng
của người khác).
4. Hôm nay, chúng ta
cũng học nơi người phong thái độ mau
mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết
ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên
tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta.
Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và
đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.
|