CHẢNH
Ngày
nay, từ “chảnh” không còn xa lạ với chúng ta. Vậy “chảnh” là gì? Có thể chúng
ta hiểu chung chung và vẫn sử dụng từ ngữ này, nhưng để giải thích thì có lẽ lại
khó nói. Vâng, rất có thể là như vậy!
Chảnh
là phương ngữ Nam bộ, tính từ này có nghĩa là lên mặt, làm cao, ra vẻ ta đây,
khinh khỉnh, kênh kiệu,... Chảnh là từ ngữ được gán cho những ai “khó ưa”. Tại
sao họ khó ưa? Vì họ… “chảnh”. Chảnh vì xinh đẹp, giỏi giang, giàu có, tài ba,
khéo léo, quyền thế, chức vị,… Nghĩa là tự cho mình là hơn người về phương diện
nào đó. Tuy nhiên, cũng có dạng xấu mà vẫn chảnh, dốt mà cũng chảnh, nghèo mà
lại chảnh,… Thế mới lạ. Nói chung, dạng chảnh nào cũng “chả ra gì” ráo trọi!
Nói
theo phong cách khôi hài: Chảnh là “chanh hỏi”, là “chờ anh chanh hỏi chảnh”,
gọi là “lemon question” (lemon: chanh; question: hỏi – kiểu Vietnamese English).
Nói thế thì đúng là “finir l’eau dire” (hết nước nói, finir: hết, l’eau: nước,
dire: nói – kiểu Français Vietnamien). Đúng là “traduire, c’est détruire” (dịch là diệt), và như vậy thì đúng là…
“mắc dịch” thật!
Chảnh là khi người nào đó đưa ra cái “mặt sốc” khi đối
diện với mình, hỏi mà không thèm trả lời. Con gái thường chảnh nhiều hơn con
trai. Những người ganh tỵ với người khác về một mặt nào đó mà có tâm địa xấu xa
vì thấy người ta hơn mình, người đó là… chảnh. Người chảnh thực sự thì luôn tự
đắc, tự nhận mình là số dzách, là number one, coi trời bằng vung, cứ tưởng mình
là “cái rốn” của vũ trụ, chẳng coi ai ra gì, nhìn đời bằng nửa con mắt. Chảnh
cũng được nói là chảnh chọe, vì Việt ngữ vốn dĩ thích thêm “từ láy” để nhấn
mạnh.
Người ta chảnh ngoài đời đã đành, người ta còn chảnh
trong lĩnh vực tôn giáo nữa. Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng động thái
“chảnh” rất thường xảy ra trong mỗi chúng ta, đôi khi rất khó nhận ra. Sau khi Ngài
nói về “người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18:1-4; Mc 9:33-37; Lc 9:46-48),
khuyên chúng ta “đừng làm cớ cho người ta sa ngã” (Mt 18:5-11; Mc 9:42-48; Lc
17:1-2), dụ ngôn “con chiên lạc” (Mt 18:12-14; Lc 15:4-7), về việc “sửa lỗi anh
em” (Mt 18:15-19), “tha thứ cho nhau” (Mt 18:21-22; Lc 17:3b-4), và cuối cùng
là dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18:23-35) – tức là nói về “người
chảnh chọe”. Cả chương 18 này là bài giảng của Chúa Giêsu về Giáo hội.
Thánh Mátthêu ghi lại: Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi
các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu thì người ta
dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến
vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con,
tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi,
tôi sẽ lo trả hết”. Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha
luôn món nợ. Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn,
mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền
túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao!”.
Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”. Nhưng
y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc xảy
ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi
câu chuyện. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha
hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van
xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn như chính
ta đã thương xót ngươi sao? Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành
hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ
đối xử với anh em như thế, NẾU mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Đọc lại dụ ngôn này, có lẽ chúng ta cảm thấy “nóng máu”
với tên đầy tớ ác ôn và bất nhân kia. Được tha “mười ngàn yến vàng” mà lại
không tha cho người chỉ nợ “một trăm quan tiền”. Tỷ lệ chênh lệch quá nhiều. Tuy
nhiên, thật ra “tên ác ôn côn đồ” kia lại là chính mỗi chúng ta chứ chẳng ai
trồng khoai đất này đâu!
Chuyện kể rằng…
Một người đàn ông luống tuổi tật nguyền không đủ tiền mua
vé người lớn, cũng không có giấy chứng nhận người tàn tật để được ưu tiên giảm
phí, ông đành mua vé trẻ em.
Sau khi xe chạy được một đoạn đường xa, cô nhân viên soát
vé đi thu vé từng người. Đến chỗ người đàn ông luống tuổi, cô thấy ông đưa ra
vé trẻ em. Cô tròn mắt và hạch hỏi ông:
– Ông là người
lớn mà sao mua vé trẻ em?
Ông trầm giọng:
– Tôi không đủ
tiền mua vé người lớn, nên tôi đành mua vé trẻ em.
– Sao kỳ vậy?
– Dạ, tôi bị tật
nguyền.
– Giấy chứng
nhận tàn tật của ông đâu?
– Tôi không có.
Nhưng tôi tật nguyền thật. Cô xem này…
Vừa nói ông vừa cởi chiếc giày cũ kỹ và kéo ống quần lên.
Ông mất nửa bàn chân bên phải. Cô soát vé thản nhiên:
– Chúng tôi cần
xem giấy tờ chứng nhận ông là người tàn tật, chứ chúng tôi không xem người.
Người đàn ông tật nguyền hết lời năn nỉ ỉ ôi, xin cô gái
thông cảm, nhưng cô vẫn lắc đầu và một mực từ chối. Cô gọi người trưởng đoàn
đến xử lý. Nghe cô trình bày về trường hợp người đàn ông tật nguyền, anh chàng
này vẫn cương quyết không chấp nhận và bắt người đàn ông tật nguyền phải bù
thêm tiền. Người đàn ông tật nguyền nói như khóc:
– Tôi làm việc
cho một công ty tư nhân, năm ngoái tôi bị máy cưa cắt đứt bàn chân. Không ai
cấp giấy chứng nhận tàn tật cho tôi vì tôi làm cho tư nhân. Tôi lại vô gia cư,
không thân nhân, không hộ khẩu, không ai muốn chứng nhận cho tôi là người tàn
tật.
Nghe câu chuyển diễn biến từ đầu, một người đàn ông ở dãy
ghế bên kia liền đứng dậy, chỉ tay vào anh trưởng đoàn và nghiêm nói:
– Anh không phải
là đàn ông!
– Sao ông nói
vậy?
Người đàn ông kia lặp lại:
– Anh không phải
là đàn ông!
Mọi người cười ồ lên. Người đàn ông kia nói rõ từng chữ:
– Anh chắc chắn
không phải là đàn ông.
Mọi người lại cười ồ lên. Anh trưởng
đoàn phân bua:
– Thân xác tôi
thế này, ai nhìn cũng biết tôi là đàn ông.
– Thế giấy chứng
nhận là đàn ông của anh đâu? Đưa ra cho mọi người xem. Cần giấy chứng nhận,
không cần xem người!
Mọi người cười ồ lên. Anh trưởng đoàn cứng họng. Người
đàn ông kia nói với cô soát vé:
– Cô có phải là
phụ nữ không?
– Ông hỏi kỳ.
Tôi không là phụ nữ thì là gì chứ?
– Giấy chứng
nhận là phụ nữ của cô đâu? Cần giấy chứng nhận, không cần xem người!
Mọi người cười ồ và bàn tán râm ran. Cô gái đỏ mặt, không
nói được gì thêm.
Câu chuyện này “minh họa” dụ ngôn của Chúa Giêsu nói về
“tên mắc nợ không biết thương xót”. Qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ thế nào là
“chảnh”.
Rõ ràng anh chàng trưởng đoàn và cô nhân viên soát vé là
hai người “chảnh”. Họ cứ tưởng là mình “ngon” hơn người khác một chút, cứ tưởng
mình có chút “quyền” rồi thì muốn “hành” người khác thế nào cũng được. Họ
“chảnh” vì họ không hề biết chạnh lòng thương người khác, không biết cảm thông
với người khác, không biết “bỏ qua” cho người khác – tức là không biết tha thứ
cho người khác.
Một lần nọ, chính giáo hoàng tiên khởi Phêrô cứ tưởng
rằng tha bảy lần là “ngon” lắm rồi, nhưng Chúa Giêsu bảo như thế là “xoàng”
lắm, phải “tha bảy mươi lần bảy” cơ đấy (Mt 18:22). Tại sao Ngài đòi buộc chúng
ta phải làm vậy? Thánh Gioan tông đồ nhận xét về Thiên Chúa: “Θεός είναι αγάπη – God is love – Dieu
est l’amour – Thiên Chúa là tình yêu” (Ga 4:8). Chúa Giêsu đã thương xót chúng ta đến nỗi chịu chết vì chúng ta.
Ngài thực sự là tình yêu. Tình yêu là lòng thương xót, có thương xót thì mới
biết tha thứ. Tha thứ là luật buộc, là mệnh lệnh, nghĩa là phải thực hiện ngay
lập tức. Tha bảy mươi lần bảy không phải là tha 490 lần, mà là PHẢI THA MÃI MÃI.
Không tha thứ là “chảnh”, biết tha thứ là “hết chảnh”, đơn giản mà nhiêu khê!
TRẦM THIÊN THU
|