Tránh nhưng
không trốn sự đau khổ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa)
Ông Gióp than thở: "Cuộc sống con
người nơi dương thế chẳng phải là
thời khổ dịch sao?...Gia tài của tôi là những
tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm
đau khổ ê chề." (G 7,1-3). Vấn nạn đau
khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp
người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng
văn chương của nhân loại từ cổ chí kim
vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của
con người được trình bày, mô tả. Nói
đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện
đau khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất
dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ
nhưng cần chân nhận lý do chung này: người ta
thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ
cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương
liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc
trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày
làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ
ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật
về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà
mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì
"chiều đến, khi mặt trời đã lặn,
ngưòi ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai
bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm
lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều
kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh
tật, và trừ nhiều quỷ." (Mc 1,32-34). Khó có
thể chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi
cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế
nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng
Người thì Người lại đi nơi khác?
Phải chăng Chúa Giêsu muốn "nhổ cỏ tận
gốc", tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên
của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi
rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và
có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ
trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái
"dục" của con người. Vì ước
muốn mà không được toại nguyện nên phải
chịu đau khổ. Chính vì thế con đường
thoát khỏi khổ đau được đề ra là
" diệt dục". Nếu nhìn cuộc đời con
người với vòng đời "sinh - lão - bệnh -
tử là bể khổ thì làm sao giải thích
được việc một người được
sinh ra là khổ, cho dù " thoặt sinh ra thì đà khóc
choé". Người ta có thể muốn trẻ mãi không
già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn
trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên
trần gian có thể tự mình "muốn"
được hay không đựơc hoài thai trong dạ
mẹ cũng như tự mình muốn được hay
không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là
vì con người sống không hợp với Đạo, vói
lẽ trời, với sự vận hành của giới
tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước
vọng của mình, để cho tham muốn của mình
đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế
để diệt khổ đau không gì hơn là tiết
chế tham muốn của mình theo kiểu cách của thi
nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Tri túc, tiện
túc, đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn, tiện
nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Và sống
thuận theo lẽ trời tự nhiên như:
Thu ăn măng
trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm
hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức
học phân biệt đau đớn với đau khổ.
Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có
đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là
một phạm trù thuộc lý trí. Biết được
chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh
được thì mới có khổ đau. Người ta
thường dí dỏm rằng người điên không
hề có khổ đau, vì không biết. Tuy nhiên, ngoại
trừ một vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch
bệnh...thì người ta đều chân nhận rằng
chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra
đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng
hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan
niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối
khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta
cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau
khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự
dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo
nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét
đau khổ như là hiện tượng độc
lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là
nói đến một ai đó đau khổ. Như thế
sự đau khổ luôn gắn liền với nhận
thức và ước muốn của con người. Con
người cảm thấy đau khổ khi các hiện
tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng
lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải
thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các
nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính
cuộc sống của Người, Người dẫn
chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ
để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố
gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm
dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng
Người đã biết rõ cuộc đời con
người khó có thể thoát được mọi
nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh
thần. Người đã tự nguyện chọn con đường
đối diện với với đau khổ bằng
một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục
là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục
cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết
trong Phật giáo diệt dục bằng sự "tri
kiến". Không phải cứ thuận theo lẽ tự
nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành
của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã.
Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung
dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật
cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc
khải, đặc biệt là qua con đường Chúa
Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng
chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha
nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu "hãy
thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm
cho mình", thì sẽ có cơ may vượt qua đau
khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu
đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu
có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã
được yêu rồi".
Cần phải diệt trừ tội
lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ,
đồng thời cần phải tránh các khổ đau
cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa
dịu khổ đau cho đồng loại hết khả
năng có thể, vì đó là điều chính đáng và
phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự
đau khổ không như ý hay chẳng đặng
đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để
sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau
khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm
đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm
cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là
hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên
trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô
hữu, chúng ta tránh khổ đau, nhưng không lẫn
trốn đau khổ.
|